Tìm kiếm Blog này

Thứ Bảy, 30 tháng 5, 2015

Lưu Hỉ Trung chỉ huy Biên đội 128 Hải quânTQ



Tướng Trung Quốc xâm lược quần đảo Hoàng Sa qua đời
Việt Dũng (nguồn Tân Hoa xã)
(GDVN) - Hãng tin nhà nước Tân Hoa xã Trung Quốc đã tuyên tuyền về cuộc chiến xâm lược đẫm máu quần đảo Hoàng Sa khi kẻ chỉ huy cuộc chiến đó qua đời.
Luu_Hi_Trungchi_huy_bien_doi_xam_chiem_Hoang_Sa_1974


Lưu Hỉ Trung - kẻ từng chỉ huy biên đội xâm chiến quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam
Tân Hoa xã – hãng tin nhà nước Trung Quốc ngày 28 tháng 5 đưa tin, Lưu Hỉ Trung - nguyên Phó tư lệnh Hạm đội Nam Hải, Hải quân Trung Quốc – người từng chỉ huy biên đội tàu chiến tham gia chiến tranh xâm lược quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, đã bị bệnh qua đời vào ngày 19 tháng 4 ở Quảng Châu, thọ 85 tuổi.
Lưu Hỉ Trung được biết tới là người Tụ Nham, tỉnh Liêu Ninh, Trung Quốc. Ông này đi lính từ năm 1947, đến năm 1950 vào Đoàn thanh niên chủ nghĩa dân chủ mới Trung Quốc, năm 1953 vào Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Trong đời, Lưu Hỉ Trung từng làm lính thông tin, cảnh vệ, tiểu đội trưởng, giáo viên, tham mưu, chỉ huy tàu, phó trưởng khoa, đại đội trưởng, chủ nhiệm cái gọi là "khu tuần tra Tây Sa" (Tây Sa là cách gọi của Trung Quốc đối với Hoàng Sa của Việt Nam);
Rồi làm Tư lệnh cái gọi là "Khu thủy cảnh Tây Sa", Phó tư lệnh căn cứ Quảng châu, Tư lệnh căn cứ Du Lâm – Hạm đội Nam Hải, được bài báo cho có đóng góp cho xây dựng quân đội cách mạng, hiện đại, chính quy (Trung Quốc).


Tàu chiến số hiệu 502 Trung Quốc xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam vào năm 1974
Bài báo còn cho hay, Lưu Hỉ Trung là đại biểu Đại hội 11 của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đại biểu Nhân đại toàn quốc Trung Quốc khóa 6. Năm 1988, Lưu Hỉ Trung được gắn vào vai lon thiếu tướng hải quân.
Ngoài ra, bài viết còn "hồi tưởng" lại một trang sử Trung Quốc triển khai cuộc chiến tranh xâm lược đối với quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam vào năm 1974, bất chấp luật pháp quốc tế. Lưu Hỉ Trung đã tham gia cuộc chiến phi nghĩa này, khi đó, ông ta chỉ huy biên đội 128.
Được biết, trong cuộc chiến tranh xâm lược này, Trung quốc đã sử dụng 2 tàu quét mìn 396, 389 (lượng giãn nước mỗi chiếc chưa đến 400 tấn), các tàu săn ngầm 271, 274. Chỉ huy trên biển khi đó của Trung Quốc được biết tới có tên là Ngụy Minh Sâm. Trong khi đó, Quân đội Việt Nam cộng hòa (Nam Việt) đã sử dụng 4 tàu chiến (lượng giãn nước mỗi chiếc 1.700 tấn), trong đó có 1 tàu được đặt tên là Lý Thường Kiệt, ngoài ra còn có 4 máy bay.
Ngoài ra, Trung Quốc còn sử dụng dân quân trang bị súng máy hạng nhẹ, lựu đạn tham gia cuộc chiến tranh xâm lược này. Sau đó, Trung Quốc còn điều thêm biên đội các tàu săn ngầm 281, 282 từ Sán Đầu đến quần đảo Hoàng Sa chi viện xâm lược, biên đội này do Lưu Hỉ Trung chỉ huy.


Tàu chiến số hệu 281 Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa năm 1974
Theo thuật lại của bài báo, tối ngày 17 tháng 1 năm 1974, biên đội 281 từ Sán Đầu chạy đến Du Lâm, khi đó Lưu Hỉ Trung làm đại đội trưởng. Sau đó, ông ta nhận nhiệm vụ ở phòng tác chiến căn cứ Du Lâm, nhận lệnh từ Tư lệnh hạm đội. Cuộc chiến sau đó diễn ra khốc liệt.
Theo bài báo, sau khi nhận được tin đã bắn chìm 1 tàu chiến của Quân đội Việt Nam cộng hòa, vào lúc 15 giờ ngày 19 tháng 1, tại phòng trực ban tác chiến của Bộ Tổng tham mưu Quân đội Trung Quốc ở Bắc Kinh, lãnh đạo Trung Quốc khi đó có tên là Đặng Tiểu Bình đã vui mừng, nói: "Chúng ta nên ăn cơm thôi".
Để mở rộng chiến tranh xâm lược, Diệp Kiếm Anh và Đặng Tiểu Bình còn đồng ý với đề nghị của Chính ủy Hải quân Trung Quốc khi đó là Tô Chấn Hoa về việc điều thêm thuyền máy lắp ngư lôi đến tham chiến, nhưng giữa đường đã gặp sự cố, nên không làm gì được.
Sau này, Tô Chấn Hoa tỏ vẻ tự hào về thành tích xâm lược Hoàng Sa, cho rằng: "Từ khi hải quân nhân dân (Trung Quốc) được thành lập đã ở tuyến đầu phòng thủ trên biển, luôn ở trong môi trường chiến tranh (xâm lược), không ngừng tôi luyện trong chiến đấu (xâm lược). Cuộc chiến này, đơn vị trước tiên không được chuẩn bị đầy đủ... nhưng đã tiêu diệt được đội quân nước ngoài được vũ trang bằng tàu chiến Mỹ…".
Tàu chiến số hiệu 396 Trung Quốc xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam vào năm 1974
Trong cuộc chiến tranh xâm lược này, Hải quân Trung Quốc đã bắn chìm 1 tàu  pháo, bắn bị thương 3 tàu khu trục của Quân đội Việt Nam cộng hòa, làm cho hơn 200 binh sĩ Việt Nam cộng hòa bị thương vong. Trong khi đó, binh sĩ Hải quân Trung Quốc có 18 người chết, 68 người bị thương, tàu quét mìn 389 bị trọng thương.
Sau đó, do sợ bị tàu chiến của Việt Nam cộng hòa báo thù, Quân ủy Trung ương Trung Quốc khi đó đã ra lệnh cho các tàu chiến của họ "nhanh chóng sơ tán, nếu có tình huống thì lập tức tập trung".
Khi cuộc chiến này chưa kết thúc, Chính ủy Hải quân Trung Quốc Tô Chấn Hoa còn tích cực thuyết phục Trung Nam Hải tận dụng cơ hội “thừa thắng” xâm chiếm thêm nhóm Lưỡi Liềm. Thông qua Chu Ân Lai, báo lên Mao Trạch Đông phê chuẩn, Quân đội Trung Quốc đã nhận được lệnh thừa cơ xâm chiếm (họ gọi một cách mỹ miều là "thu hồi") đảo Hoàng Sa, đảo Hữu Nhật và đảo Quang Ảnh.
Theo bài báo, ngày 20 tháng 1, biên đội tàu chiến Hải quân Trung Quốc đã chở binh lính lục quân đến vùng biển nhóm Lưỡi Liềm, máy bay tiêm kích của lực lượng hàng không Hải quân Trung Quốc bay đến yểm trợ trên không. Lực lượng quân đội Việt Nam cộng hòa đã buộc phải đầu hàng.


Binh lính bành trướng xâm lược quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974
Như vậy, rõ ràng, đây là một cuộc chiến tranh xâm lược có sự chỉ đạo trực tiếp của toàn bộ ban lãnh đạo cấp cao nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa khi đó, từ Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai cho đến Đặng Tiểu Bình, Tô Chấn Hoa… - PV.
Mưu đồ và hành động bành trướng xâm lược này đã gây ra một cuộc chiến đẫm máu, đã xâm phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế, đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền biển đảo của Việt Nam, gây ra tranh chấp phức tạp hiện nay trên Biển Đông - PV.
Hành vi chiến tranh xâm lược này cùng với các loại hành động bành trướng tiếp theo sau này của Trung Quốc sẽ không đem lại chủ quyền cho Trung Quốc và chắc chắn rằng, kẻ gieo gió thì phải gặt bão. Trung Quốc đừng bao giờ coi thường ý chí và quyết tâm kiên định bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải thiêng liêng của dân tộc Việt Nam! - PV.
Việt Dũng (nguồn Tân Hoa xã)

Thứ Sáu, 8 tháng 5, 2015

Những hành động bất lợi của VNDCCH đối với chủ quyền Biển Đông

Saturday, May 25, 2013

Trong các bài bàn luận về việc đổi tên nước tôi có nêu ý kiến cho rằng không nên lấy lại tên nước là VNDCCH. Một trong những lí do nêu lên là kể từ ngày bắt đầu sử dụng cho đên khi được thay bằng tên CHXHCNVN, Nhà nước VN với tên gọi là VNDCCH chưa từng chính thức khẳng định chủ quyền đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà lại còn có những hành động không có lợi về mặt chủ quyền ở biển Đông.  Trong bài post này, tôi xin trích dịch tài liệu của Bộ Ngoại Giao TQ công bố ngày 30/1/1980 về cái gọi là 'chủ quyền không tranh cãi' của họ đối với HS và TS (TL bằng tiếng Anh của họ có ở nhiều TV lớn trên thế giới nhưng hình như họ không còn lưu trên mạng, bạn đọc nào biết tiếng Trung có thể tìm đọc ở đây), phần TQ tố cáo các hành động thất lợi này. Ông Lưu Văn Lơi, nguyên trợ lí Bộ trường Ngoại giao có viết phản biện (nhưng chưa thật thuyết phục) trong cuốn sách "
Cuộc tranh chấp Việt - Trung về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa", nxb CA in năm 1995.
 có thể đọc online ở đây.
Bản tiếng Anh TL của BNG TQ chúng tôi có được từ thư viện Quốc Gia Úc (Canberra) có tựa: China's Indisputable Sovereignty over the Xisha and Nansha Islands. Foreign Language Press, Beijing, 30/1/80.
Lưu ý rằng lập trường TQ hiện nay là không có tranh chấp ở HS (dù CP Việt luôn nằng nì là có tranh chấp)  vị họ đã chiếm trọn quần đảo này từ năm 1974 từ VNCH. Vì vậy, có lẽ họ thấy không cần tranh thủ dư luận quốc tế thêm nữa. Hơn nữa, trong tài liệu này có một vài điều làm lộ rõ sự man trá của họ. Chẳng hạn, vụ Guo Shoujing (Quách Thủ Kính) thời nhà Nguyên đo đạt thiên văn ở phía nam Châu Nhai năm 1279. Trong TL này thì họ cho là Quách Thủ Kính đo ở HS, nhưng mới đây khi tranh chấp Scarborough với Philippines thì họ lại nói chỗ QTK tới đo là bãi cạn này (từ các chi tiết trong sử sách cũ chỉ cho phép suy được duy nhất độ vĩ thôi - không biết được độ kinh). Có thể vì 2 lí do này mà họ không muốn đưa TL bằng tiếng Anh trên mạng.
Cũng lưu ý trong phần trích dịch này chúng tôi giữ nguyên các tên đảo theo cách gọi của TQ cho khớp với giọng điệu của họ.


=========================================================================

CHỦ QUYỀN KHÔNG TRANH CÃI CỦA TRUNG QUỐC ĐỐI VỚI HAI QUẦN ĐẢO TÂY SA VÀ NAM SA

(Tài liệu của Bộ ngoại giao nước CHNHTH - 30/01/1980)

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 


(4) SỰ MAN TRÁ CỦA CHÍNH QUYỀN VIỆT NAM(*)

Cần phải chỉ ra rằng trước đây không hề có tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam về quyền sở hữu quần đảo quần đảo Tây Sa (VN gọi là Hoàng Sa -ND) và Nam Sa (Trường Sa - ND). Trong một thời gian dài, dù trong các tuyên bố và các công hàm của chính phủ, hay trong sách báo, tạp chí, bản đồ và sách giáo khoa, phía Việt Nam đều chính thức thừa nhận hai quần đảo này là lãnh thổ Trung Quốc từ thời xa xưa.

Ngày 15 tháng 6 năm 1956 Thứ trưởng Ngoại giao Ung Văn Khiêm của VNDCCH tiếp Đại biện lâm thời của Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam Lí Chí Dân (Li Zhimin) có nói với ông rằng, “theo dữ liệu của Việt Nam, quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa về mặt lịch sử là một phần lãnh thổ của Trung Quốc”. Lê Lộc, Quyền Vụ trưởng Vụ châu Á của Bộ Ngoại giao Việt Nam, có mặt trong buổi tiếp, đặc biệt nêu ra dữ liệu của Việt Nam và chỉ ra rằng, "xét về mặt lịch sử thì các quần đảo này đã là một phần của Trung Quốc vào thời nhà Tống".

Trong tuyên bố ngày 04 tháng chín năm 1958, Chính phủ nước CHNDTH tuyên bố bề rộng của lãnh hải của nước CHNDTH là mười hai hải lí và quy định rõ ràng rằng "quy định này áp dụng cho tất cả các vùng lãnh thổ của CHNDTH, bao gồm. . . quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc ". Ngày 06 tháng 9 năm 1958 báo Nhân Dân, cơ quan Trung ương của Đảng Lao động Việt Nam, in nổi bật trên trang nhất các chi tiết của Tuyên bố của Chính phủ Trung Quốc. Bài báo viết: "Vào ngày 04 tháng 9 năm 1958 Chính phủ CHNDTH đã ra Tuyên bố về lãnh hải của Trung Quốc. Tuyên bố này quy định rằng chiều rộng của lãnh hải Trung Quốc là mười hai hải lí (hơn 22 km). Quy định này áp dụng cho mọi vùng lãnh thổ của nước CHNDTH bao gồm cả lục địa Trung Hoa và các đảo ven bờ, cũng như Đài Loan và các đảo xung quanh, quần đảo Bành Hồ (Penghu), quần đảo Ðông Sa (Pratas), quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa (Maclesfield), quần đảo Nam Sa và tất cả các đảo khác thuộc Trung Quốc ngăn cách với đất liền và các đảo ven bờ bởi các vùng biển công(biển quốc tế).” Ngày 14 tháng 9 cùng năm, Thủ tướng Phạm Văn Ðồng của phía Chính phủ Việt Nam long trọng tuyên bố trong công hàm gửi cho Thủ tướng Quốc Vụ Viện TQ Chu Ân Lai rằng "Chính phủ nước Việt-nam Dân chủ Cộng hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của chính phủ nước Cộng hoà dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc.", và rằng "Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy". Công hàm của Phạm Văn Đồng cho thấy rõ ràng rằng Chính phủ Việt Nam thừa nhận hai quần đảoTây Sa và Nam Sa là lãnh thổ của Trung Quốc (xem phụ lục 4).

Trong tuyên bố ngày 09 tháng năm 1965 về việc CP Mĩ quy định "vùng chiến sự" cho lực lượng của họ tại Việt Nam, Chính phủ nước VNDCCH nêu rằng đó là "một mối đe dọa trực tiếp đến an ninh của nước VNDCCH và các nước láng giềng" vì "Tổng thống Mĩ Lyndon Johnson đã chỉ định toàn bộ Việt Nam và các vùng biển liền kề kéo dài từ bờ biển của Việt Nam ra khoảng 100 km và một phần của lãnh hải của CHNDTH trong quần đảo Tây Sa của TQ làm "vùng chiến sự" của lực lượng vũ trang Hoa Kì". Ở đây, Chính phủ Việt Nam một lần nữa đã công nhận rõ ràng quần đảo Tây Sa là một phần lãnh thổ của Trung Quốc.

Khi tường thuật việc nước ngoài xâm nhập quần đảo Tây Sa, báo chí Việt Nam cũng rõ ràng thừa nhận những đảo này là thuộc về Trung Quốc. Ví dụ,  báo Nhân Dân ngày 13 tháng 5 năm 1969 viết "ngày 10 tháng 1 máy bay quân sự Hoa Ki xâm phạm không phận của Trung Quốc trên đảo Vĩnh Hưng (Yongxing dao) và đảo Đông (Dongdao) của quần đảo Tây Sa thuộc tỉnh Quảng Đông của Trung Quốc." Nhiều bài báo tương tự đã được thực hiện trên báo chí Việt Nam.

Bản đồ chính thức và sách giáo khoa của Việt Nam cũng rõ ràng thừa nhận quần đảo Tây Sa và Nam Sa là lãnh thổ của Trung Quốc. Ví dụ, Bản đồ thế giới do Cục Bản đồ của Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam thực hiện năm 1960 ghi hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa theo tên Trung Quốc và ghi chú trong ngoặc rằng chúng thuộc về Trung Quốc. Tập Bản đồ thế giới do của Cục Đo đạc và Bản đồ thuộc Phủ Thủ tướngViệt Nam xuất bản tháng 5 năm 1972  cũng ghi quần đảo Tây Sa và Nam Sa theo tên Trung Quốc của họ (xem phụ lục 5). Một ví dụ khác là bài học mang tên "CHNDTH" trong sách giáo khoa địa lí cho học sinh lớp 9 do nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam phát hành năm 1974 có ghi như sau: "Chuỗi đảo từ quần đảo Nam Sa và Tây Sa đến đảo Hải Nam, đảo Đài Loan, quần đảo Bành Hồ và quần đảo Chu Sơn. . . có hình dáng như một cánh cung tạo thành một bức tường thành bảo vệ lục địa Trung Quốc."

Người Việt Nam nhấn mạnh ở mức nghiêm túc rõ ràng rằng để thiết lập chủ quyền lãnh thổ cần phải trình ra "các tài liệu nhà nước chính thức" và "các văn bản có hiệu lực pháp lí". Những gì mà chúng tôi nêu ra ở trên đúng là "các tài liệu nhà nước chính thức" và "các băn bản có hiệu lực pháp lí" của Việt Nam. Điều này cho thấy rõ ràng rằng cho đến năm 1974, Chính phủ Việt Nam vẫn còn công nhận hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa là lãnh thổ Trung Quốc. Bây giờ, chính quyền Việt Nam đã nuốt lời và man trá quay đi khỏi lập trường ban đầu của họ về việc công nhận quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa là lãnh thổ Trung Quốc, và điều này là một cái gì đó hoàn toàn không được phép làm theo luật quốc tế.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . ____________________________________________________________(*) Ngày 17/11/2000 để biện bạch chủ quyền của họ ở Trường Sa, BNG TQcũng lập lại gần y nguyên các sự việc này trong tài liệu "International Recognition Of China's Sovereignty Over the Nansha Islands".
Phụ lục 4: Công hàm Phạm Văn Đồng 14/9/1958
Phụ lục 5: Bản đồ thế giới tháng 5/1972





Thứ Ba, 5 tháng 5, 2015

Hoàng Sa du ký 1954

Hoàng Sa du ký 1954 - Kỳ 1:
Đường ra đảo xa 

16/09/2014 06:05 GMT+7
TT - Dưới đây là bài bút ký Ba tháng trên hoang đảo đăng trên tạp chí Phổ Thông, xuất bản tại Hà Nội, số 27 tháng 5-1954.
image033
Trang bìa tạp chí Phổ Thông số 27, tháng 5-1954 và Hai trang trong bút ký Hoàng Sa năm 1954 - Ảnh: Lại Nguyên Ân sao chụp

Bút ký này của tác giả Mạnh Thư, được đăng ở số gần như là cuối cùng của Phổ Thông, kể về chuyến đi biển của mình hồi cuối năm 1953 và ba tháng sống trên quần đảo Hoàng Sa, khi đó do quân đội quốc gia VN cai quản.
Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân sưu tầm và giới thiệu cùng bạn đọc.
Tôi tình nguyện xin đi Hoàng Sa để biết cho tường tận ở đảo bé nhỏ mà người ta đã nói đến từ một câu sấm truyền “Bao giờ sen mọc bể Đông...” đến câu chuyện rất mới quân đội Trung Hoa đỏ muốn tranh chấp trên... mặt báo!
Muốn ra Hoàng Sa phải đến Đà Nẵng (Tourane). Từ Hà Nội dùng đường hàng không VN, đi ôtô xuống Cát Bi rồi lên máy bay vô Nam.
Tôi tạm biệt đô thành một ngày gió bấc. Máy bay bốn động cơ từ Hong Kong ghé lại, gần 13g trưa mới cất cánh. Nữ chiêu đãi viên phát bông nút tai và ân cần đưa chăn len cho từng hành khách. Dừng lại ở phi trường Phú Bài (Huế) chừng 15 phút, máy bay lại vội vã lên đường, trốn một cơn mưa sắp tới.
Xuống Đà Nẵng, tôi vẫn giữ y phục len trong khi người ta còn mặc quần áo trắng cộc. Thời tiết đã khác hẳn. Từ 18-11 là ngày bỏ Hà Nội, đến 23-11 mưa gió tơi bời, một chốc ngớt rồi lại mưa tầm tã, nhiều nhất về đêm. Tôi nóng lòng muốn ra ngay đảo nhưng ngày lại ngày vẫn không có tin gọi.
Cho tới chiều 23 mới thấy tùy phái đến báo sửa soạn mai sớm ra tàu. Tối hôm đó, tuy ngoài trời còn rả rích, tôi cũng cố bắt nghe tin tức khí tượng. Đài Pháp Á báo: “Trung Hải còn gió mạnh, biển nhăn sóng nhưng đã yếu dần” (Trung Hải: biển miền Trung Việt Nam).
Sáng sớm 24-11, lội những vũng nước mưa ngập lúc tối, ra bến thì xuồng máy đã chờ, đón khách ra tàu, thông báo hạm L.G. Chuyến đi này khá đông, một trung đội Việt binh đoàn ra thay trung đội cũ ngoài Hoàng Sa, lại còn binh sĩ ra cù lao Ré (ngang Quảng Ngãi).
Ra khỏi núi Tiên Sa, sóng xanh cuồn cuộn, con tàu say nghiêng ngả. Chả mình tôi, anh em binh sĩ cũng say sóng, nôn thốc tháo. Gió nổi mạnh, sóng tràn qua boong. Hòm xiểng xếp trên boong nếu không chằng kỹ dây chão chắc chắn rớt xuống biển đến hết mỗi khi tàu tròng trành. Tôi không còn mấy sức lần ra thành tàu, đành ngồi tại chỗ mà nôn ọe.
Một thủy binh dìu tôi vào phòng thuốc, dưới trời mưa tầm tã, trên boong tàu lạnh, vì sóng vì gió vì mưa, anh kêu người khán hộ cho tôi thuốc. Phòng sát buồng máy.
Tôi có cảm tưởng vào hỏa ngục, phần thì tiếng động cơ ầm ầm, phần thì hơi lửa sừng sực, đầu nặng mà dưới chân tàu lảo đảo, không khí thật ngạt thở. Tôi nuốt không hai viên thuốc Nautamine, người thủy thủ lại xốc nách đưa tôi ra và an ủi: “Không sao đâu, ngoài trời có gió anh sẽ dễ chịu trong chốc lát”.
Tôi cảm ơn, lại ngồi phệt trên mặt hòm, bám hai tay vào cạnh hai hòm khác cho khỏi mất thăng bằng, mỗi khi tàu xiêu lệch. Cũng may, mỗi lớp sóng tràn qua boong lại cuốn hết rớt rãi của mọi người. Xung quanh tôi không còn ai trông ra hồn, người nào cũng mặt xanh nanh vàng, ngồi rù thảm hại chịu đựng hình phạt.
Sóng cứ nổi, mưa cứ rơi, gió cứ thổi, tàu cứ tròng trành, cho đến lúc tỉnh một giấc ngủ chợp thì trời tạnh, người có tỉnh táo nhưng đứng lên chân vẫn chập chờn. Cứ tính tàu chạy 18 giờ thì đêm nay phải ngủ dưới tàu. Tàu còn ghé cù lao Ré để một ít binh sĩ lên đảo rồi mới ra Hoàng Sa. Chuyến đi này mệt nhất, khổ vì say sóng lại khổ phải ở lâu dưới tàu.
Tôi cứ ngồi trên boong ngắm bóng đen tràn mặt biển, thấm thía với câu thơ: Lòng quê dờn dợn vời con nước/Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Thủy thủ đã treo võng lấy chỗ nằm. Tôi xuống buồng (cabin) tìm một chỗ ngủ. Sóng đã nhẹ, con tàu đu như đánh võng. Tôi phải nằm tận trong cùng ghế cho khỏi ngã. Tiếng sóng vỗ chập chờn xa vắng, ngủ thiếp lúc nào không nhớ, không còn quan niệm gì về thời gian.
Biển lăn tăn sóng, nước xanh như chàm. Tôi lên boong rất sớm, tựa thành tàu. Một thủy thủ đi ngang qua bảo tôi: “Sắp đến rồi đó!”.
Theo phía tay chỏ, tôi thấy bóng mấy cù lao xanh mờ. Rất lâu sau đó Hoàng Sa mới hiện rõ ràng. Đảo lớn dần với bóng cây um tùm. Binh sĩ sửa soạn hành lý trong khi tàu tiến về phía đông rồi buông neo tại đó. Hai xuồng bỏ xuống, mọi người lo chuyển hành lý. Nhìn lên đảo thấy lố nhố bóng người ra đón ngoài đầu cầu.
Tôi theo chuyến canô thứ nhất vào bờ. Tuy vậy, vì nhiều đá ngầm, cách bờ khoảng 4-5 thước phải lội biển đi vào, chỗ đó đá mọc lởm chởm nhưng cũng may có nhiều cát. Nước xanh trong suốt đáy, chân giẫm lên cát mịn của đất liền, nước thì mát lạnh, có lẽ cả cái thú đến đích nữa nên tôi tỉnh táo lạ lùng trong khi người đi sau than: “Say sóng không còn biết ông trời bà đất là gì nữa!”.
Trao lại thư từ và đứng nói chuyện với đồng nghiệp một lúc, tôi cáo thoái về trước nghỉ ngơi và thay áo quần nhơ nhớp. Theo đường chính tôi vào, hai bên đường những cây hoang dại không tên không tuổi mọc tươi tốt như rừng. Những chòm cây đó không cao quá đầu người cũng cản được gió mạnh.
Hoàng Sa, tên chữ Pháp là Pattle. “Hoàng” là vàng và “Sa” là cát. Cát vàng. Tuy vậy Hoàng Sa không có cát như cát ở bãi sông, những mảnh san hô, những mảnh vỏ trai ốc vỡ vụn nhỏ như cát già và cũng êm chân như cát. Và nếu cát già (của đá cuội) vàng thẫm thì cát Hoàng Sa vàng nhạt như ngà.
Hoàng Sa là đảo chính, có người ở, tất cả 40 người, 35 binh sĩ Việt Nam và năm người của Sở Khí tượng; không có bóng dáng đàn bà quanh năm. Đó là một điểm đáng để ý khi nói chuyện Hoàng Sa. Hoàng Sa ở trong quần đảo Hoàng Sa (Archipel de Paracels).
Trên bản đồ Hoàng Sa hơi giống hình chữ nhật, cù lao Robert hình trứng và cù lao Boisée, vẫn theo đồ bản, phảng phất như chiếc lá trầu. Hoàng Sa rộng lớn bằng hồ Hoàn Kiếm, giá đem được về Hà Nội, đặt vào hồ thì... vừa xinh!
Đảo ở một vị trí quan trọng về quân sự, cũng quan trọng với Sở Khí tượng, vì trạm Hoàng Sa ở giữa biển báo chiều gió, sức gió với nhiều chi tiết chuyên môn mà biển miền Trung thì nhiều dông tố. Độc giả hẳn chưa quên trận bão vừa qua dọc duyên hải Trung Việt, nặng nhất ở Huế, các báo hằng ngày đều có tường thuật.
Phổ Thông là tạp chí ra hằng tháng của Hội Ái hữu cựu sinh viên Trường Luật, Hà Nội, xuất bản từ năm 1951-1954, thường đăng những bài nghiên cứu, bài giảng về luật, về kinh tế - xã hội của các giáo sư, giảng viên đại học một số ngành xã hội nhân văn ở Hà Nội đương thời.
Bên cạnh phần khảo cứu, tạp chí cũng có một số lượng bài là tác phẩm văn học của các tác giả người Việt hoặc dịch các tác phẩm văn học nước ngoài
Hiện nay có thể vẫn tìm lại được những bài báo, những ghi chép tương tự như bài bút ký này, trên sách báo thời trước. Song nguồn tài liệu này chắc hẳn không thể nhiều thêm nếu không nói là đang trở nên hiếm dần.
Bởi vậy, tôi nghĩ nên giới thiệu lại với bạn đọc ngày nay. Đây đương nhiên cũng là bằng chứng về chủ quyền, về sự hoạt động, sự quản lý của nhà nước, của người Việt đối với quần đảo Hoàng Sa, ngay trong thời gian đang diễn ra chiến tranh Đông Dương (1946-1954).
LẠI NGUYÊN ÂN

Hoàng Sa du ký 1954 - Kỳ 2:
Đây, Hoàng Sa, Vương quốc An Nam...

17/09/2014 12:35 GMT+7 TT - Từ đầu cầu - cũng có người gọi là cầu tàu - là chỗ xuồng áp bến, chạy dài một con đường chính lối vào trung tâm đảo. Đường thứ hai song hàng.
image034
Trạm thu phát sóng radio và trạm khí tượng do người Pháp xây dựng trên đảo Hoàng Sa (ảnh chụp năm 1940) - Ảnh tư liệu

image035
Bia khẳng định chủ quyền Việt Nam do một đơn vị lính bảo an người Việt dựng trên đảo Hoàng Sa vào tháng 6-1938. Trên bia có khắc những dòng chữ bằng tiếng Pháp: Cộng hòa Pháp - Vương quốc An Nam - Quần đảo Hoàng Sa 1816 - Đảo Hoàng Sa 1938 - Ảnh tư liệu của UBND huyện Hoàng Sa

Con đường trên hai đoạn đường, kẻ chéo thước thợ, ra biển về phía bắc. Đường dưới thông bốn đường ra biển về phía nam. Các đầu đường, sát biển đều có xây pháo đài phòng ngự cuộc đổ bộ.
Hai tòa nhà quy mô rộng rãi, một tòa to nhất là đồn, trên sân thượng có chòi canh, trên chòi canh có xây hải đăng, kính dày, ngày trước tối đen, có thắp đèn bão (lampe de tempête) soi đường cho tàu bể.
Nhà thứ hai, kiểu villa, nhỏ hơn, còn rộng tới bảy buồng và hai gian con (buồng tắm) là trạm khí tượng, có bàn giấy trạm trưởng, phòng làm việc chung, buồng máy, phòng ngủ, phòng ăn.
Mỗi tòa nhà còn những lớp nhà ngang, phụ cận ba bốn căn; bên đồn làm điếm gác, phòng nguyện, buồng ngủ, nhà bếp; bên khí tượng dùng làm kho vật liệu, bếp nước.
Một lớp nhà ngang như thế bị hoàn toàn phá hủy vì bom Mỹ. (Trong thời gian Thế chiến thứ hai, quân Nhật đóng quân trên nhiều đảo ở Hoàng Sa, Trường Sa - BT)
Phía đông bắc và tây nam đảo có xây hai cái mốc, bắt biển đồng, ở trên ghi:
République Franc5aise
Empire d’ Annam
Archipel des Paracels
1816 ile Pattle 1938

Sau trạm khí tượng, về phía nam (hai tòa nhà đều xây hướng bắc) có khu rừng thông nhỏ vài ba chục gốc. Giữa rừng dựng một cái mốc ximăng, chữ kẻ sơn màu xanh nhạt:
1946 ile Pattle reprise de possession 21 Mai par 21 fusiliers marins du RBFM (ngày 21-5-1946 đảo Hoàng Sa được giành lại bởi 21 tay súng lính thủy thuộc đơn vị...) dưới kê danh sách cả hai mặt: E.V. Vaury, Thoraval, Hasoero, Moreau, Allano, Martin... Kẻ sơn lâu ngày chữ mờ, lại khuất cỏ ở phía dưới mốc, rất khó đọc.
Ngoài rừng thông trồng một chỗ, còn lẻ tẻ bên đường đôi ba gốc. Đường ra biển, cửa sau đồn, còn thấy ba gốc dừa, hai gốc thối hoàn toàn, bị chặt ngang, còn một cây chắc không hợp thủy thổ lá úa héo hắt.
Ngoài ra toàn là những bụi hoang dại mọc xanh tốt, dày đặc thành rừng. Có đến hai ba giống, một giống lá xanh bóng, một giống lá có lông như tráng bạc, làm cảnh thì đẹp nhưng vô tích sự, họa chăng chặt cành về làm củi.
Giống trời sinh, phát đi ít nhưng mọc lan ra nhiều, xanh mượt, xanh ngút ngàn. Ở trong nhà lá xanh che cả chân mây mặt bể, lá to bản và dày. Ai cũng ước ao giá là rừng cà phê, tươi tốt thế này thì quả nhiều phải biết!
Nhưng cây trồng thì còn thứ nào chịu được gió ở đảo, và mùa nực chịu sao được sức nóng của cát? Đất không phải đất thịt, lại không phải đất màu mỡ, toàn cát và vụn san hô.
Đất lâu ngày vón với nhau rắn như đá. Cây bị động gốc lại gió suốt đêm ngày mà không phải gió nhỏ, thường cũng 12-16 nœud (nœud là hải lý, 1.852m) một giờ, lên làm sao được? Chỉ có bốn gốc đu đủ, hoa sai mà ít đậu quả.
Trên đường rau sam mọc hoang, lá đỏ cạch. Cỏ chỉ mọc từng chỗ. Nhất về mạn đầu cầu và phía tây nam, dây muống bể có sợi rút dài trên mười thước, bò ngổn ngang. Rừng dày đặc cành lá, khó mà len được lối đi, ở trong thêm dây tơ hồng chằng chịt quấn như mạng nhện.
Dọc theo đường lớn ra biển, phía tây nam, giữa rừng cây sầm uất có một chỗ trống sạch sẽ phẳng phiu, trên đó nổi một thềm nhà cao ráo, thềm miễu Bà, dựng một gian, nhìn ra biển cả. Trừ lúc đèn nhang mở, còn thì khép cửa chính.
Hai bên, cửa sổ mắt cáo lấy ánh sáng vào trong. Miễu thờ Phật, có tượng đá, tay cầm lư hương, tạc cao bằng đầu người. Cửa miễu, dưới ba chữ “Kim sa am” có đôi câu đối, cũng đắp mảnh sứ như bức hoành trên:
Độ nhân vô lượng sắc không môn,
Lễ Phật thậm thâm công đức hải

Bên cạnh miễu là nghĩa trang lặng lẽ với chín phần mộ, năm nấm có mộ chí ghi tên người bất hạnh, quê quán và ngày tạ thế. Còn bốn ngôi đầu mộ trồng miếng ximăng không ghi gì cả. Chắc có một huyệt đã cải táng, chỗ lũng còn cắm một thập tự giá bằng gỗ.
Phía tây nam suốt ngày vắng vẻ, u uất, biển mạn ấy sóng cả quanh năm, trắng xóa, cuồn cuộn. Sau miễu đổ nhào một cái chòi canh bằng sắt, những thanh sắt dày, gỉ hết cả, công trình phá hoại của thời gian.
Tìm kiếm mãi mới thấy hai gốc bí đao, một gốc bí ngô, ngọn bò lẫn cỏ, anh em trước giồng.
Đấy, quang cảnh Hoàng Sa.
Ở đảo ai cũng lo lương thực. Lương thực chỉ trông vào tiếp tế, cả gạo lẫn thực phẩm, các vật dụng từ cái cuốc làm cỏ đến cây kim vá áo đều từ đất liền đưa ra. Mỗi tháng tàu ra một lần. Ngày tàu ra náo nhiệt, song lại trở về chuỗi ngày buồn.
***
Ngày 25-11 - Trưa 26, tôi tập việc cho quen và sáng 27 làm một mình. Nhân viên của sở có bốn người, hai người làm vô tuyến truyền thanh, hai người làm chuyên viên khí tượng.
Một phạm nhân, anh Nao, thổi cơm và quét dọn vặt. Vừa làm hết việc tôi đã ra ngay bãi, định đi một vòng. Mới ra, chưa kịp nhận phương hướng, gặp đường là về, mới thấy chưa hết một vòng đảo.
Đảo không nhỏ lắm như đã tưởng tượng. Ở Hà Nội vòng hồ Gươm không thấy mỏi vì cảnh đẹp bên đường, vả lại lối đi phẳng phiu; đi vòng đảo là đi trên cát, cũng có chỗ bãi xuống thoai thoải, cát êm, có chỗ nhiều cát, dốc hẳn xuống một thước bề cao, thứ cát to hạt đi lún cả guốc, chân nặng sa lầy nên chóng mệt.
Biển cố nhiên đẹp, đẹp cả ngày nắng lẫn ngày mưa, đẹp trong cái mênh mông hùng vĩ, khi phẳng lặng với vài đợt sóng uốn éo dịu dàng như cô gái đùa với em thơ, khi giận dữ cau có bạo tàn như thiếu phụ nổi cơn ghen, sùi bọt mép thúc sóng cả vào bờ, lùi ra lấy đà để rồi gào thét chúi đầu vào tình địch.
Ra biển, tâm hồn tự nhiên êm ả vì người bé nhỏ quá trước thiên nhiên, trước cao cả, cảm thấy sâu xa sự đua chen danh vọng tiền tài là hèn mọn.
Ở bãi biển giả dối không còn nữa, quần áo sang trọng đắt tiền là thừa, ai cũng dễ dàng như ai, trần một mảnh vải, dáng điệu tự nhiên, mất hết những cử động học đòi, những lối ngồi kiểu, những bước uốn éo, ve vẩy đôi tay thừa.
Nằm, ngồi, đi, đứng chỉ cần thoải mái, không câu nệ bẩn áo quần, muốn lăn vào thiên nhiên sống tự nhiên như buổi sơ khai. Biển nổi sóng thì tâm hồn cũng sôi nổi những ý tưởng cao siêu, những quan niệm tuyệt mỹ của vẻ đẹp lớn lao, không giả tạo, không tủn mủn.
Xa khơi biển xanh như chàm, xanh rất đậm, ngả sang màu thiên thanh, màu bích ngọc, màu quan lục chỗ nông. Nước vỗ bờ thì xanh trong suốt đáy. Đây đó sóng bạc đầu tung bọt trắng ngần...
Màu sắc tuyệt diệu như thế, thanh âm là một hòa tấu nhịp nhàng. Biển cồn ngày mưa, gió gào như rú, sóng đổ ầm ầm, mưa rơi lốp đốp; biển lặng sóng êm, gió đứng, mây ngừng, chập chờn đôi cánh chim không vỗ cánh.
Biển sôi trong đêm tối mịt mùng, vài ngôi sao lấp lánh trên trời và đáy biển, cho người ta chợt nghĩ đến bề rộng và bề sâu.
MẠNH THƯ

Hoàng Sa du ký 1954 - Kỳ cuối:
Những ngày thường giữa khơi xa
18/09/2014 06:05 GMT+7 TT - Sáng 30-11, Sang chơi bên đồn hỏi chuyện anh em đội viên: "Giũa gì đấy? Ra biển chơi đi!".

image031
Đào giếng lấy nước ngọt trên đảo Hoàng Sa (ảnh chụp năm 1938) - Ảnh tư liệu
- Cảm ơn, để bận khác! Bận giũa lưỡi câu!
À hay! Ông này ở tiểu ban bắt cá. Có chuyện viết rồi đây!
- Ông câu chơi đấy chứ?
- Không, cách tiếp tế khó khăn, anh em tôi tự túc. Trong đất liền đời sống đã đắt đỏ, giá hàng đột ngột cao vọt lên với đồng bạc hạ giá, nếu thức gì cũng mua thì lương binh sĩ chả còn bao để giúp gia đình. Ở hoang đảo này giải quyết bằng cách nào nếu không chịu câu cá mà ăn!
- Đất này trồng tỉa được không?
- Cát san hô còn có gì màu mỡ? Ta ra vụ này là mùa rét còn nóng thế này. Ra ngoài giêng hai nóng nữa, tháng ba, tháng tư đã thấy thời tiết mùa hè, cát nóng như rang, cây nào lên được?
- Nuôi gia súc được không hở ông?
- Bò, dê thì tốt lắm. Thầy xem cây cối thế kia, thả chúng tự do thì chóng sinh sản, nhưng ở tháng ba đã về, chưa gây xong cơ sở thì ai muốn trông nom.
Cũng có cỏ đấy, ngày xưa nuôi bò phải giữ cỏ cho bò ăn. Thầy có thấy giếng nước (abreuvoir) xây trên cỏ đấy chứ? Nhưng nuôi gia súc phải có vốn, anh em tôi ai đưa ra được?
- Các ông chia công tác thế nào?
- Chia từng tiểu ban: tiểu ban bắt cá được miễn công tác vặt, tiểu ban bếp nước luân chuyển 10 ngày một lần, tiểu ban này ba người. Bắt cá thì chừng 6-7 người, không thay đổi, phần đông có nghề chài lưới, hoặc không thì cũng là người biết lội (bơi).
Ngoài ra còn phải trông nom vệ sinh, nhặt cỏ, rẫy đường, quét lối đi, lấy củi, không kể công tác chính của quân nhân: gác trên chòi canh hoặc đi tuần đêm quanh đảo.
- Gác trên chòi làm gì?
- Để đánh kẻng báo hiệu khi thấy bóng tàu, thuyền. Thuyền, tàu thấy từ xa, gõ hai tiếng kẻng, khi thấy tiến vào đảo thì gõ một hồi cấp báo.
Tàu bay đánh ba tiếng. Tàu bay nhìn thấy rõ hay khi khi mây u ám, chỉ nghe tiếng động cơ cũng đánh ba tiếng.
- Từ trên chòi có thấy rõ quốc tịch tàu thuyền qua lại không?
- Ít khi nhận rõ vì xa quá. Với lại họ có kéo quốc kỳ mới phân biệt được. Máy bay thì xem cờ vẽ đằng lái, cao ba nghìn thước thì cũng chịu, có khi không nhận rõ kiểu máy bay là Dakota hay Box-car, chứ đừng nói đọc số máy. Qua Hoàng Sa là máy bay đi Hương Cảng, Philippines.
- Tàu gì qua lại miền này?
- Tàu buôn và tàu tuần tiễu hải phận. Cũng có tàu đánh cá của một công ty ở Hong Kong, hình như của người Anh, thủy thủ phần đông là Nhật. Cũng có hôm thấy thuyền mành giương đến ba buồm.
image036
Đây là giấy chứng sinh của bà Mai Kim Quy, sinh ngày 7-12-1939 tại đảo Hoàng Sa. Cha bà Kim Quy là ông Mai Xuân Tập, nhân viên khí tượng đảo Hoàng Sa - Ảnh tư liệu
Trưa 30-11, trời êm biển lặng. Mặt trời chói lòa, biển như một cái bể dầu loang loáng, chân trời xa mờ mờ sương. Vắng lặng mênh mông, vài đợt sóng xô lên bãi bị cát khô hút hết.
Xa tắp, vài bóng cô quạnh đứng dưới nước, mực nước đến ngang hông, lặng lẽ buông cần. Chẳng ai nói với ai nửa lời, chăm chú nhìn phao và chăm chú nhìn đàn cá lượn lờ.
Thỉnh thoảng một người giật cần, một con cá cong mình vùng vẫy đầu dây cước. Ông ta gỡ cá buộc vào xâu. Kiên nhẫn như thế hàng 2-3 giờ cho đến khi nào xâu cá đã dài mới bì bõm lội lên, hút - để tự thưởng - một điếu và nghêu ngao trên đường về.
Ở một góc biển khác, trên những tảng đá mấp mô, sóng vỗ tung tóe, những chàng trai khỏa thân đứng rình đàn cá. Trước mặt họ chỉ có nước với trời.
Nước dồn dập đến, bọt trắng rào rào trên mặt biển xanh ngắt màu bích ngọc, gió trùng dương thổi lộng mớ tóc đen mun.
Sức vóc vạm vỡ của họ, dáng điệu tự nhiên của họ nổi lên như cắt trên một khung cảnh hùng vĩ, trông đẹp và khỏe làm sao!
Tản bộ trên cầu thấy luôn những con còng (cua) màu xanh, mình dẹt, to bằng cua đồng ở trung châu. Còng đi rất nhanh, thấy bóng người là chạy vụt xuống nấp dưới khe đá.
Yên lặng một lúc các chú lại bò lên đi nghênh ngang, mặc những con sóng ào đến. Trên những tảng đá rêu xanh còng càng nhiều. “Ốc mượn hồn” bò chậm chạp trên cát.
Những hôm đầu tháng trăng non, những hôm giữa tháng trăng tròn, nước triều rút. Biển cạn, nhấp nhô trên mặt nước nông những tảng đá san hô.
Cả phía đông nam đập nổi một vùng, lởm chởm những cành san hô gãy, những vỏ ốc vỡ. Xa ra hàng 3 cây số làn sóng xanh lượn lờ.
Biển nhiều san hô sắc nên ra biển phải đi giày, thứ giày đế cao su có cổ như kiểu pantaugas, để cả giày mà lội nước bì bõm.
Từ tinh sương, cả đảo - trừ những người bận - gọi nhau dậy ăn sáng để còn ra biển. Có những người đi sớm từ 5g, lội nước ngang bụng, ra xa đến 4 cây số, đến nơi nước xuống ngang ống chân để có nhiều thì giờ.
Đi như thế người nào cũng mang theo dụng cụ: một thanh sắt để bẩy đá, một con dao để cắt gân ốc, một túi rết (muselière) để nhặt nhạnh.
Ra muộn, 6g -7g, lúc nước cạn sát bờ, cạn đến cổ chân, nghe vang vang từ xa dội lại tiếng “cách cách” đập vỏ ốc mà tuyệt nhiên không thấy bóng người.
Dưới những tảng đá san hô xâm xấp nước thường luẩn quẩn mấy con cá, mấy con cua, đôi khi mấy con mực nhỏ và nhiều thứ ốc.
Ra biển ai không đi biển? Hoạt động cho đỡ buồn, cho quên thời gian, cho đỡ ốm, cho biết. Trời mênh mang, biển mênh mang, không khí trong lành, cảnh vật tưng bừng với ánh bình minh rực rỡ.
Biển thêm xanh, rong thêm biếc, mây biến sắc lúc mặt trời trườn khỏi mặt biển mờ sương lam. Gió phần phật tà áo, thổi tung mớ tóc, gợn mặt biển những con sóng nhấp nhô.
Những người khách lạ
Dưới đây là đoạn trích trong Hoàng Sa qua những nhân chứng, Tập san Sử Địa số 29, phát hành tại Sài Gòn tháng 1-1975:
Người Việt vốn quý khách. Khách tới, đi canô hay xuồng nhỏ vào đảo là được tiếp đón niềm nở. Nhất là khi khách gặp cơn hoạn nạn cần phải cứu giúp.
Khách lạ tới là những lúc vui vẻ. Nhưng đôi khi anh em cũng thấy những triệu chứng khác thường.
Một lần, trước năm 1970, một bọn người không rõ quốc tịch lên bờ xin nghỉ ngơi. Họ nói tàu đánh cá của họ bị bão.
Khách lạ thì ta có từ chối bao giờ đâu. Rồi các anh lính Việt Nam bỗng chú ý đến bọn này vì họ đem theo một tấm giấy lớn, mở ra thì biết là tấm bản đồ của quần đảo Hoàng Sa.
Thế rồi chẳng có gì xảy ra cho tới giữa tháng 1-1974.
Sau vụ xung đột ở Hoàng Sa lúc đó (tức trận hải chiến Hoàng Sa), anh em mới vỡ lẽ các tàu đánh cá là tàu do thám ngụy trang. Vì lúc dự trận, trên đài chỉ huy của tàu cá Trung Quốc kéo ra hai cây đại liên, còn hai bên mạn tàu có những ô vuông chĩa ra những họng súng...
TRẦN THẾ ĐỨC
MNH THƯ (Li Nguyên Ân sưu tm và gii thiu)

Nguồn: Tuoitre

Tường thuật của Tổ khí tượng (1956-1974)

TP - Tôi gặp họ một chiều hè, bên biển Đà Nẵng, một trong sáu bãi biển đẹp nhất thế giới và nói về biển, về một mảnh đất của Việt Nam. Đó là Hoàng Sa - nơi họ gắn bó một phần đời khi còn rất trẻ.
Ông Nguyễn Giáo đang đo nhiệt độ, độ ẩm tại lều máy trạm Khí tượng Hoàng Sa
Ông Nguyễn Văn Cúc, ông Ngô Tấn Phát, Tạ Hồng Tấn, Võ Như Dân, những mái tóc như sóng bạc đầu. Họ học nhiều nơi khác nhau, công việc cũng khác nhau.
Ông Ngô Tấn Phát học khí tượng ở Tân Sơn Hòa, Sài Gòn. Ông Tạ Hồng Tấn học ở Cát Bi, Hải Phòng. Ông Võ Như Dân là công nhân chế hơi được đào tạo tại Nha Khí tượng Đà Nẵng.
Ông Nguyễn Văn Cúc là công binh kiến tạo, ra Hoàng Sa với nhiệm vụ lấy mẫu đất để nghiên cứu xây dựng sân bay. Nhiệm vụ và thời gian khác nhau nhưng Hoàng Sa in đậm trong tim họ.
Họ nhớ như in, đảo chính hình hột xoài, dài khoảng 3 km, rộng 2 km. Bốn góc đảo có bốn lô cốt, tường rất dày. Phía Bắc bãi biển cạn, có nhiều rạn san hô rất đẹp, khi triều xuống lộ ra một bãi dài, đủ màu xanh nhạt, trắng ngà, hồng.
Phía nam đảo có miếu Bà, rộng hơn 4m, chiều sâu chừng 3m có chuông mõ, sách kinh. Gần miếu có tảng đá chồm ra biển như một hàm ếch lớn. Chiều chiều cá về chầu rất nhiều, mọi người ngồi trên bờ xem chúng bơi lội.

Ngoài đảo chính, Hoàng Sa có nhiều đảo nhỏ, nằm phía đông. Dựa vào hình dáng hoặc tính chất mà có tên đảo Cây, đảo Hòn Đá, đảo Nam... còn gọi Tree Island, Pattle Island (Hoàng Sa), Phú Lâm là Ile Boiseé hoặc Woody Island (nhiều cây)...
Cá rất nhiều, đeo kính lặn xuống sâu một chút là được lượn lờ cùng chúng. Dưới nền các ngôi nhà là hầm chứa nước mưa, đủ dùng quanh năm. Tàu thuyền qua lại thường ghé xin.
Trạm khí tượng Hoàng Sa (lúc đó gọi Ty Khí tượng Hoàng Sa) ở 111,37 độ kinh độ đông, 16,33 độ vĩ độ bắc. Mã số phát báo số liệu quốc tế của trạm là 48860. Mỗi ngày đo 8 obs (kỳ quan trắc) gồm gió, mưa, mây, nắng, nhiệt độ nước biển, độ ẩm, khí áp... thả bóng thám không hai lần: 6 giờ sáng và 12 giờ trưa.
Hướng và tốc độ gió được tính trên bàn phân toán (loại bàn tròn có mặt mi-ca vẽ tọa độ phương, tâm cố định mặt bàn) rồi thảo mã điện gửi cùng obs Synop 7 giờ và 13 giờ (0 và 7 giờ Greenwych). Số liệu phát báo bằng moọc (morse) vào Nha Khí tượng Sài Gòn để dự báo thời tiết. Về sau phát báo bằng đàm thoại vô tuyến.
Nguồn cung cấp điện là máy phát chạy xăng. Với các yếu tố đo đạc, mã trạm, chế độ quan trắc và phát báo số liệu thì trạm khí tượng Hoàng Sa là trạm hạng A, phục vụ dự báo thời tiết của Tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO).
Mỗi kỳ ở đảo ba tháng. Khi ra, họ mang gạo, đậu xanh, nếp, khoai tây đóng thành thùng. Khoai đổ xuống đất để được lâu, khi ăn chọn củ héo ăn trước. Trẻ, khỏe, chưa có gia đình nên ông Phát đi luôn hai kỳ, tháng 3 đến tháng 9 năm 1959.
Ông nói: “Mang ra hơn 40 con vịt, mỗi con hơn ký. Vài ngày làm một con. Còn băm cá, bắt ốc cho ăn, con nào con nấy ú nu. Sáng nào cũng được năm, bảy trứng. Đu đủ quả to lắm, do đất bùn và phân chim tích tụ lâu năm. Rau, bí đỏ xanh mướt, như trang trại vậy.
Cá nhiều lắm, tui không có kinh nghiệm nhưng chỉ vác câu đi một chút là được cả xâu. Đi hai kỳ nhưng tui chỉ gặp bão xa một lần. Chim vào tránh bão, đậu lên cả dây phơi, màn, chiếu. Tui vuốt ve, chúng cứ đứng yên, khô cánh mới bay.
Thuyền ngư dân vào trú bão rất nhiều. Ngày ấy chỉ có thuyền buồm chứ chưa chạy máy như bây giờ, nên có lúc hàng trăm chiếc đậu, nhấp nhô quanh đảo, đẹp lạ thường. Nhưng tôi mê nhất là nước biển Hoàng Sa. Đứng ở cầu tàu nhìn ra, nước chia từng lớp, gần bờ màu xanh dương, ra mí sóng xanh đậm rồi đậm hơn, theo tầng đáy, bốn năm lớp, đẹp lắm”.
Ông Tạ Hồng Tấn cũng là quan trắc viên, ra Hoàng Sa lần đầu năm 1963. Những năm sau ông cũng đi. Lần cuối là năm 1974 rồi bị lính Trung Quốc bắt. Ông nói Hoàng Sa đẹp lắm. Bão đến, mưa gió như muốn nhấn chìm nhưng rồi mây tan mưa tạnh đảo lại càng đẹp.
Ông Võ Như Dân làm nhiệm vụ chế hơi bơm bóng Pi-lô. Với một lượng xút, phe-rô và nước tương ứng cho vào bình từ hôm trước, hôm sau bơm thả. Xong việc, ông trồng rau, câu cá bắt ốc chế biến cho anh em.
Ông nói ốc tai tượng to như cái bát luộc trộn rất ngon nhưng ngon nhất là ốc sừng (còn gọi ốc gân). Gọi ốc sừng vì nó có cái vòi vươn ra để di chuyển, trông như cái sừng. Sau khi luộc rút sừng chấm nước mắm gừng rất ngon.
Ốc hoa to, vân màu rất đẹp, khi về ai cũng mang theo để trưng tủ chè, làm gạt tàn thuốc, chặn giấy. Từ năm 1956 cho đến năm 1969, năm nào ông cũng đi Hoàng Sa, có năm hai lần. Những lúc không làm ca các ông chơi cờ tướng, lấy đinh khắc tên và tháng ngày ra Hoàng Sa lên đá hay theo thuyền cao su của lính địa phương quân đi tuần tra các đảo nhỏ.
Các đảo này rất nhiều chim. Chúng rất dạn, người đến sát bên mới bay. Chúng đẻ trứng ngay trên đất, nhiều như sỏi. Phân chim rất nhiều. Thỉnh thoảng những người ở đồn điền của bà Trần Lệ Xuân, vợ Ngô Đình Nhu ra lấy phân chim và san hô khô về xay bón cây.
Ông Nguyễn Nhự ở Hòa Tiến, huyện Hòa Vang ra Hoàng Sa ba lần (năm 1969, 1970, 1972) nay đã 83 tuổi. Tôi đến đúng lúc thôn Bắc An của ông đang tổ chức kỷ niệm ngày thương binh liệt sỹ. Trưởng thôn, chủ tịch mặt trận và hội phụ nữ đang dâng bông trái lên mặt tủ đặt giữa nhà văn hóa thôn.
Mâm cỗ đạm bạc, lọ bông trang rừng, nải chuối cau vàng ươm, đĩa thịt vịt và mì Quảng. Trong cái ly cát nhỏ, mấy điếu thuốc đang tỏa khói. Ông Nhự chủ lễ dâng hương khấn vái. Chúng tôi đứng lặng tưởng niệm hương linh những người đã vong thân vì nước.
Ông Nguyễn Giáo trước phòng làm việc của trạm Khí tượng Hoàng Sa
Trong làn khói hương trầm, ông Nhự nhỏ nhẹ: “Tui rành từng khối đá, từng góc đảo. Trên đảo có một cây mù u. Trước nhà trạm có cây phượng, mùa hè trổ bông đẹp lắm. Có hai cây mít, quả rất ngon. Có một loại cây giống đu đủ tía nhưng rất chắc, cành nhỏ bằng cổ tay con nít đeo bao gạo 50 ký vẫn không gãy. Tro loại cây này rất ít và mịn, mấy tháng mới được một mớ nhỏ, đóng cứng như gạch! Cá, ốc, cua, hải sâm nhiều lắm...”.
Đang miên man, bỗng ông Nhự chỉ trưởng thôn nói “ông già Hai Hoanh cũng đi Hoàng Sa đó”. Anh Hoanh cho biết: Có mấy bức ảnh cha anh chụp ở Hoàng Sa.
Rồi anh về lấy đưa cho tôi ba bức ảnh nói: “Tôi giữ cẩn thận lắm. Cô là người đầu tiên thấy đó. Không chỉ tôi mà ông Nhự cũng bất ngờ. Đó là bức ảnh ông Nguyễn Giáo (còn có tên Huýnh) đang đứng trước lều quan trắc khí tượng, tay cầm quyển sổ, tay cây bút.
Nắng chan hòa. Đội mũ lưỡi trai vẫn rất rõ nét mặt. Cánh cửa lều khí tượng mở rộng, thấy rõ cả máy đo. Ông Nhự giọng run run: “Đúng rồi, máy đo nhiệt độ, độ ẩm đây, phòng làm việc đây. Cây phượng đây, hoa đẹp lắm”.
Ông chỉ gốc cây bên bậc tam cấp: “Chỗ này có cái ghế, tụi tôi làm bằng bìa ghi sắt quân đội để ngồi chơi, đánh cờ”. Ông chỉ gốc cây nhỏ bên hiên nhà bảo: “Cạnh cây dương liễu này là bồn nước...”.
Ông nhìn bức ảnh ông Giáo đứng trước nhà làm việc, trên cửa có dòng chữ TY KHÍ TƯỢNG và ảnh hai người lính đứng trên bãi cát, phía sau biển mênh mông.
Ông Phát, ông Dân cũng rất xúc động khi nhìn những tấm ảnh. Trạm Khí tượng Hoàng Sa đây, bể nước đây... Lội biển về là tụi tui đứng đây dội nước ào ào. Nhiều bữa mấy anh lính cũng sang đây tắm...
Ông Cúc trầm ngâm: “Ra đảo nhiều lần, biển trời Hoàng Sa tinh khiết như chưng lọc. Tháng 1/1974 ông đi với một kỹ sư Mỹ, lấy mẫu đất về nghiên cứu, chuẩn bị xây dựng sân bay. Ông lấy ba nơi, đầu, giữa và cuối đảo. Lên tàu trở về thì bị tàu Trung Quốc chặn đánh.
Là lính công binh kiến tạo, chỉ đi xây dựng cầu đường, sân bay nên trưởng tàu ra lệnh ông và viên kỹ sư người Mỹ phải trở lại đảo. 12 giờ đêm các ông xuống bo bo với chiếc máy truyền tin C25 và chỉ được tàu dọi đèn pha hướng về đảo một lần với lệnh “Đi thẳng”.
Bơi tay vào đến nơi gần 5 giờ sáng nhưng phải rất lâu hai người mới lên được đài quan sát. Đứng trên đài quan sát ông thấy tàu Trần Khánh Dư và tàu Lý Thường Kiệt đánh trả quyết liệt nhưng lực lượng mỏng quá.
Tàu Trần Khánh Dư bị trúng đạn, nghiêng một bên rồi chìm. Đến 10 giờ sáng thì đảo bị chiếm hoàn toàn. Ông nhảy ra khỏi đài quan sát, nấp vào bụi cây rồi bị bắt.
Tháng 3/1974 được trao trả qua ngả Hồng Kông, ông nhói tim khi qua Hoàng Sa. Quần đảo dưới cánh máy bay tươi đẹp vậy mà dang dở một kế hoạch xây dựng.
Chúng tôi lặng đi. Hoàng Sa, nơi những con dân nước Việt đã cống hiến sức lực và khắc ghi họ tên vẫn sâu thẳm trong mỗi trái tim. Hoàng Sa là của Việt Nam. Đó là điều không có gì thay đổi được. 

Một thời trai trẻ ở Hoàng Sa
TT - Chiều 11-12, UBND huyện đảo Hoàng Sa, TP Đà Nẵng tổ chức một cuộc gặp gỡ cảm động với những người từng sống và làm việc trên đảo Hoàng Sa. Đó là những cựu nhân viên của Trạm quan trắc khí tượng Hoàng Sa hiện đang sống ở Đà Nẵng.
Phóng to
Hải đăng trên đảo Hoàng Sa (ảnh chụp trước Thế chiến thứ 2 được lưu tại phòng lưu niệm kỷ vật Hoàng Sa).
TT - Chiều 11-12, UBND huyện đảo Hoàng Sa, TP Đà Nẵng tổ chức một cuộc gặp gỡ cảm động với những người từng sống và làm việc trên đảo Hoàng Sa. Đó là những cựu nhân viên của Trạm quan trắc khí tượng Hoàng Sa hiện đang sống ở Đà Nẵng.
Trong căn phòng bốn bề treo đầy những kỷ vật, tranh, ảnh của Hoàng Sa, ba cựu nhân viên khí tượng say sưa nói về những ngày "đo mưa đếm gió” trên đảo Hoàng Sa thân yêu.
Ba ông già ấy là Tạ Hồng Tấn, Võ Như Dân và Ngô Tấn Phát, tuổi đã ngoài 80. Trong đó, ông Tạ Hồng Tấn là một trong những người cuối cùng rời khỏi đảo vào một ngày không thể quên của năm 1974.
Ký ức
Mái tóc bạc phơ, ông Tấn chậm rãi nói: "Gặp lại anh em xưa, tôi thấy nhớ hòn đảo ấy quá chừng". Ông Tấn chỉ lên tấm bản đồ có chấm đỏ mang tên Hoàng Sa treo trên tường, bồi hồi nhớ lại.
Năm 20 tuổi, cậu thanh niên Sài Gòn Tạ Hồng Tấn được Nha Khí tượng Sài Gòn cử đi học nghiệp vụ một năm tại Cát Bi (Hải Phòng). Tốt nghiệp khóa học, ông Tấn được cử về phục vụ tại Trung tâm Khí tượng Đà Nẵng. Đầu năm 1963, Nha Khí tượng Sài Gòn quyết định cử ông ra Hoàng Sa làm việc ở trạm quan trắc khí tượng.
Ông Tấn cười: "Đó là lẽ đương nhiên, không riêng gì tôi, tất cả những ai làm ở Nha Khí tượng đều ít nhất vài lần ra đảo". "Đúng 5g chiều, tại cảng Đà Nẵng, tôi cùng ba chuyên viên khí tượng, một kỹ sư vô tuyến điện và một phục vụ hậu cần lên tàu. Tàu chạy suốt đêm, đến 6g sáng hôm sau thì cập đảo Hoàng Sa".
Phóng to
Đào giếng lấy nước ngọt trên đảo Hoàng Sa (ảnh chụp năm 1938, hiện được lưu tại phòng lưu niệm kỷ vật Hoàng Sa)
Hoàng Sa ngày ấy là một hòn đảo vắng vẻ, chỉ dăm bụi cây cao chừng 3m. Rất ít chim và nước thì xanh trong. Trạm quan trắc khí tượng xây dựng kiên cố trên một điểm cao, ở đó có cả một tháp quan sát, đây cũng là nơi có ngọn hải đăng luôn được thắp sáng hằng đêm. Đồn lính thì nằm dưới chân đảo.
Mỗi ngày, trạm đều đặn quan trắc ba giờ một lần. Những thông số như sức gió, lượng mưa, nhiệt độ biển, áp suất, ẩm độ... lần lượt được chuyển về Sài Gòn bằng tín hiệu morse.
"Những lúc rảnh rỗi, tôi cùng các đồng nghiệp đi dạo khắp đảo. Lúc câu cá, khi thì đi tìm san hô, vỏ ốc, rong biển đem về làm quà kỷ niệm. Không một ngóc ngách nào của Hoàng Sa mà tôi chưa đặt chân đến" - ông Tấn kể.
Vào giữa năm 1964, ông cùng các cộng sự của mình đối mặt với một cơn bão biển dữ dội: "Bão gió ngút trời, như muốn nhấn chìm cả hòn đảo. Trước khi bão đổ bộ, chúng tôi đã hoàn tất bản tin báo bão từ Hoàng Sa gửi về Sài Gòn. Đến khi bão tan, dắt tay nhau lên trên mỏm núi đá cao nhất của đảo mà nhìn đất trời, thấy hạnh phúc vô cùng. Biển ở Hoàng Sa đẹp lắm" - ông Tấn nói.
Cả ông Tấn, ông Dân và ông Phát đều kể rằng có một điều mà bất kỳ người nào đặt chân lên đảo Hoàng Sa đều làm và làm một cách đầy tự hào, đó là khắc tên mình lên những hòn đá cuội lớn nằm quanh đảo.
"Ngay trưa của ngày đầu tiên đặt chân lên đảo, tôi đã khắc tên mình lên vách đá”. Dòng chữ đó ông Tấn vẫn còn nhớ như in: "Tạ Hồng Tấn - chuyên viên Nha Khí tượng Sài Gòn đã đến đây - 1963".
Nhưng đấy chỉ là hàng chữ trong vô số bút tích chi chít trên những vách đá Hoàng Sa. "Đó là dấu tích kỷ niệm của những ngày trai tráng lãng mạn để lại giữa biển đảo Hoàng Sa, cái tên đã trở nên thiết tha với những ông lão này" - ông Tấn tâm sự.
Một ngày không quên
Phóng to
Các cựu chuyên viên khí tượng của Nha Khí tượng Sài Gòn (từ trái sang): Võ Như Dân, Ngô Tấn Phát và Tạ Hồng Tấn - Ảnh: Anh Kiệt
Cũng như ông Tấn, những kỷ niệm một thời ở Hoàng Sa vẫn còn nguyên với ông Ngô Tấn Phát: "Cứ ba tháng, chúng tôi lại ra Hoàng Sa làm nhiệm vụ một lần. Khi đi thì gồng gánh đủ cả hàng tạ những gạo, nếp, đậu xanh, gà, vịt sống đem ra nuôi ăn dần. Tôi chưa quên được cảm giác lần đầu ra đảo. Lúc đi thì đông đủ anh em, vợ con đưa tiễn. Nhưng khi tàu rời bến xa dần đất liền mới thấy mình đơn lẻ. Chúng tôi sống trên Hoàng Sa cùng sóng gió và trạm quan trắc. Thỉnh thoảng mới thấy vài chiếc tàu hàng đi ngang qua đảo".
Ông Võ Như Dân, người từng có mặt ở Hoàng Sa từ những năm 1956, quả quyết: đặc sản của Hoàng Sa chính là ốc gân - loại ốc to bằng chiếc đĩa, ăn giòn và thơm. "Nghề của tôi là chế hơi và bơm bóng thám không phục vụ các quan trắc viên đo gió trên đảo" - ông Dân kể.
Với ông Tạ Hồng Tấn thì ngày 19-1-1974 là một ngày không thể quên. "Qua ống kính quan trắc, chúng tôi thấy từ xa lô nhô tàu chiến lớn nhỏ vây quanh Hoàng Sa. Tất cả thả neo dừng lại phía ngoài khơi. Họ chờ đến khi hoàng hôn vừa buông xuống thì nổ súng. Đạn bay vèo vèo vào đảo. Chừng 30 phút sau, những chiếc tàu hải quân Trung Quốc tiến vào đảo".
Ông Tấn nhớ lại: ông cùng năm đồng nghiệp bị bắt đưa lên tàu, chở đến đảo Hải Nam. Đến tháng 3-1974, ông và nhiều người khác được trao trả tại Hong Kong, rồi lên máy bay về lại Sài Gòn. Sau 1975, ông Tấn tiếp tục công việc ở Đài Khí tượng thủy văn miền Trung đóng tại Đà Nẵng, một thời gian ngắn thì về hưu, sống yên bình cùng con cháu.
Ông Tấn nói bây giờ mỗi ngày xem bản tin dự báo thời tiết về Hoàng Sa trên báo Tuổi Trẻ, ông lại bâng khuâng như thể đang ở trạm quan trắc Hoàng Sa để "đo gió đếm mưa". 


Những người Việt ở Hoàng Sa năm 1937-1938

QĐND - Thứ Hai, 13/08/2012, 16:39 (GMT+7)
QĐND-LTS: Đại tá Nguyễn Văn Bính, giảng viên Học viện khoa học Quân sự vừa chuyển cho chúng tôi một ghi chép đề năm 1998 của cha mình là nhà thơ Nguyễn Minh Hiệu (1924-1998), nguyên hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, nguyên Phó trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Thanh Hóa về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc.
“Giáá như gặp được ông bạn kiều bào nào ở Pa-ri về nước lần này, tôi thử gợi ý xem, khi trở sang bên ấy, nhờ bà con ta ở Pháp hỏi xem có biết gia đình, con cháu ông Nguyễn Kỳ, kỹ sư mỏ ở Đông Dương hồi những năm 30, hiện còn những ai? Chắc là những tư liệu riêng của ông ta trong chuyến đi ra Paracels tức đảo Hoàng Sa năm 1938 ấy vẫn còn nhiều đấy.
Mà chẳng riêng gì ông Kỳ và 4 người chúng tôi trong nhóm cán bộ kỹ thuật thuộc sở mỏ Đông Dương (Service des Mines de l’Indochine francaise) cử theo ông ta mới có mặt ở Hoàng Sa từ tháng 4 đến tháng 8-1938. Trước đó, đã có 60 người lính Việt, phần lớn quê ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, ra đóng ở đảo này, dưới quyền của một viên chỉ huy người Pháp lai - nhìn rất “Việt Nam” chỉ có cái mũi là hơi giống người Âu, mà lúc đó thường gọi tắt là ông Môn. Đơn vị quân sự này ra đảo từ năm 1937. Họ xây dựng những công sự ngầm, những kho tàng ngầm chứa lương thực, thực phẩm và cả nước ngọt, đủ dự trữ cho hai, ba năm. Nói chính xác hơn là xây loại kho tàng công sự nửa nổi nửa chìm hoặc một phần nổi hai phần chìm. Tất cả đều khéo nguỵ trang. Chúng tôi ăn chung bếp với lính, ông Nguyễn Kỳ ăn cơm với lão Môn tây lai. Nhưng nhóm kỹ thuật không được phép tò mò quan sát đến các công trình, công sự của họ. Điều đó không chỉ là nguyên tắc mà còn là một kỷ luật nghiêm ngặt lắm. Họ xây cả trụ đèn biển. Và trong số các kho ngầm còn có chứa riêng những vỏ ốc quý trên đảo. Khi chúng tôi trở về đất liền, công việc của nhóm nhà binh này vẫn còn tiếp tục”.
Bác Nguyễn Hựu, 75 tuổi (thời điểm năm 1988-SK&NC), nguyên Giám đốc mỏ Cổ Định, nay đã nghỉ hưu ở Thị xã Thanh Hóa đã kể với tôi như vậy.
Quê gốc bác Hựu cũng chính ở Nam Ngạn, phía Nam cầu Hàm Rồng. Ngày ấy ở Hoàng Sa về được ba năm gì đó, bác lại được cử về khảo sát các mỏ vùng Vĩnh Lộc, Hà Trung (Thanh Hóa). Ở đây bác được đồng chí Nguyễn Văn Huệ (nay đã 80 tuổi), tuyên truyền giác ngộ cách mạng. Sau Tổng khởi nghĩa năm 1945 thành công, Nguyễn Hựu đã từng có thời gian công tác ở Tiểu ban kinh tài của Liên khu 4; họ tổ chức khai thác các mỏ phốt-pho-rít ở Vinh và Thanh Hóa. Sau này đánh Pháp, ông được giao xây dựng và quản lý nhà máy phốt phát Nam Phát Thanh Hoá, rồi mới lên nhận công tác ở Crô-mít Cổ Định.

Bác Hựu kể tiếp:
“Chuyến ra đảo năm 1938 ấy đối với chúng tôi hết sức bất ngờ về tất cả các mặt, từ kỹ thuật nghiệp vụ cũng như nếp sống sinh hoạt và tâm lý, ứng xử, giao tiếp. Một ngày vào hạ tuần tháng ba dương lịch, kỹ sư Nguyễn Kỳ đột ngột triệu tập chúng tôi tới phòng ông ta nói là có lệnh trên cho ra đảo khảo sát. Bốn người được chỉ định có anh Trịnh Đình Hướng quê ở Bắc Ninh, chuyên hóa nghiệm; anh Lê Đức Bảo quê ở Vĩnh Lộc, Thanh Hóa, chuyên về đo đạc; anh Nguyễn Thế Trừ ở vùng cửa sông Ghép và tôi là khảo sát.
Hai giờ chiều hôm sau, chúng tôi xuôi Hải Phòng. Năm giờ sáng hôm sau nữa, cả đoàn đáp chuyến tàu chở hàng của hãng Xô-va (Sauvage), thường gọi là hãng tàu “Tây điếc”, đi Đà Nẵng. Tàu chạy bằng guồng máy. Lênh đênh trên biển mất 5 ngày mới tới nơi. Kỹ sư Nguyễn Kỳ ở khách sạn Tây, 4 chúng tôi được bố trí ở một khách sạn của người Hoa.
Ở Đà Nẵng gần một tuần thì một hôm có hai người đến gặp, đưa cho mỗi chúng tôi một tờ khai theo mẫu thống nhất, cam đoan ra đảo phải làm theo sự hướng dẫn của bộ phận quản lý ngoài đảo, còn phần chuyên môn thì do ông kỹ sư Nguyễn Kỳ phụ trách. Gần sát ngày lên đường, họ mới cho biết nơi đảo sắp đến đã có một cơ đội lính của Nam triều (chính phủ Bảo Đại) ra trước từ gần một năm rồi, các điều kiện sinh hoạt ngoài đó đến lúc này đã được chuẩn bị, không có gì thay đổi lắm so với đất liền.
Hôm sau nữa, chúng tôi được phát giấy tờ tùy thân xem như ngư dân ra đảo đánh cá làm nước mắm. “Nào chúng tôi có biết chút gì về nghề cá mú đâu!”. Họ trả lời: “Đây chỉ là hình thức bên ngoài phải làm như vậy, còn khảo sát thăm dò mỏ vẫn cứ là phần việc riêng của các anh chứ!”. Miễn là phải nhớ, bất cứ có ai hỏi đến, tất cả đều nói là được tuyển mộ ra làm nghề cá cho Nam triều.
Tiếp đó họ phát cho chúng tôi mỗi anh hai bộ quần áo bà ba nâu, hai mảnh vải làm khố, một áo tơi lá và một chiếc nón đan theo kiểu ngư dân miền biển. Chúng tôi mua thêm mỗi người một cái bếp cồn, mua thuốc lá và mấy thứ lặt vặt khác.
9 giờ ngày 2-4-1938, đoàn chúng tôi chính thức khởi hành trên chiếc tàu nhà binh Clốt Sáp (Claude Saf) của Pháp. Hôm đó gió to, sóng lớn, chiều 3-4-1938 mới tới nơi cả nhóm đều say sóng, lên đảo nằm li bì mất hai ngày mới tỉnh táo trở lại.
[​IMG]
Trụ sở hành chính của Việt Nam trên đảo Hoàng Sa trước năm 1945. Căn nhà của 4 chúng tôi ở căng bằng vải bạt. Trước mặt có cột cờ. Lá cờ vàng của Nam triều bay phần phật. Cách đấy dăm chục mét là dãy nhà bạt của bộ phận ra trước đánh cá. Kỹ sư Nguyễn Kỳ ở trên nhà bạt với ông Tây lai chỉ huy (được đóng giả như một ông chủ thầu đánh cá). Chúng tôi không tò mò nhưng rồi cũng biết đó là viên quan Một, những người kia là một cơ lính khố xanh. Thời kỳ này, quân đội Nhật đã chiếm Mãn-Châu (1931), gây sự kiện Lư Cầu Kiều (7-1937), mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược ra cả Trung Quốc và hải quân Nhật đã hoạt động mạnh cả ở vùng biển phía này. Chính quyền Pháp phải tổ chức phòng ngự ở Hoàng Sa, nhưng buổi đầu hãy tạm ngụy trang như đơn vị làm kinh tế của chính phủ Nam triều ở Huế
Cụm Hoàng Sa lúc bấy giờ có khoảng bốn năm chục hòn đảo, nhưng chỉ có đảo Paracel là rộng hơn cả, diện tích quy lại cũng được khoảng một ki-lô-mét vuông. Mặt đảo là bãi cát bồi bằng đá san hô phong hóa, có nhiều ụ con nổi lên cao hơn mặt nước biển ba, bốn mét. Các đảo khác cũng có cát bồi và đá san hô nham nhở, nhưng diện tích đều hẹp. Có đảo chỉ thực sự thấy được khi nước triều rút xuống. Trên hòn đảo Paracel có loại cỏ lá dài, mép lá rất sắc. Có loại cây thân như cây núc nác nhưng lá lại như kiểu tàu chuối rừng. Ngoài mép nước gần bờ có những cụm sú vẹt. Sau này, trong những ngày chúng tôi đã xong công việc, chỉ còn chờ tàu ra đón vào đất liền, mấy anh nấu bếp của cơ lính khố xanh mới thuật kể cho nghe thêm nhiều truyền thuyết và những mẩu chuyện về Hoàng Sa do các cụ vùng quê Quảng Nam, Quãng Ngãi của những ông bạn này từng kể lại. Thì ra từ đời Minh Mạng hay trước và sau đó nữa, các vua nhà Nguyễn đã sai chở nhiều giống cây từ đất liền ra trồng trên đảo làm điểm tiêu cho tàu bè từ xa đã biết có đảo san hô mà lựa tránh khỏi mắc đá ngầm. Nhưng thuyền ra nhỏ, chở được có hạn. Nhiều cây không hợp thủy thổ, lại gió lộng suốt ngày suốt tháng, cây khó trụ nổi.
Ở Hoàng Sa có nhiều loại chim hải âu, màu lông trắng có, đen có, hoặc màu đen nâu như chim két cũng có. Đêm đến hải âu về đảo trú ngụ. Sáng ra, trên bãi có hàng ngàn quả trứng. Chúng tôi đốt bếp cồn luộc lên nếm thử mới biết trứng hải âu vị chát, rất khó ăn. Mùa đồi mồi sinh sản, hàng đêm những con đồi mồi cái cũng tìm lên mép đảo đẻ trứng ấp con. Đặc biệt là ở đây rất nhiều vỏ ốc quý, có hàng trăm loại, nhiều màu sắc xanh, đỏ, tím, vàng. Có nhiều loại chỉ bằng móng tay. Có nhiều loại to bằng quả bưởi, ánh mặt trời chiếu vào nhấp nhánh như kim cương. Có những chiếc vỏ ốc gần như trong suốt, soi lên đèn thấy ánh lên những vân màu khác nhau rất đẹp. Anh em cho biết còn có những loại vỏ trai, vỏ ốc lớn hơn nhiều, nhưng các lớp người đến trước đã thu nhặt mất.
San hô ở đây cũng nhiều màu: Ngà trắng, vàng, xanh xanh... Chung quanh các kẽ đá san hô là nơi ẩn náu của họ hàng cua bể và cá hồng. Khi có giờ rỗi, chỉ cần đem ít gạo rang hay một dúm cơm xuống là hàng đàn cá hồng kéo đến tranh nhau ăn. Chúng tôi lấy kim găm uốn thành lưỡi câu, luyện cơm dẻo làm mồi cũng có bận câu được hàng yến. Cho nên thức ăn cua cá chẳng thiếu mà chỉ thèm rau xanh. Và ở đây cũng còn một nét bất ngờ nữa là cả ngày lẫn đêm lộng gió, vùng đảo không hề có muỗi mà vẫn có đàn dơi khá đông, loại màu nâu, loại màu đen. Anh em quê Nam, Ngãi cho biết loại này cũng từ đất liền ra. Chúng ăn moi biển nên rất béo, có con to bằng con chim sáo. Lúc no mồi cần nghỉ ngơi, chúng náu mình trong các kẽ đá san hô.
[​IMG]
Dụ số 10 của Bảo Đại ký ngày 29-3-1938 khẳng định chủ quyền lâu đời của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Kỹ sư Nguyễn Kỳ chỉ huy nhóm chúng tôi khảo sát, thăm dò trữ lượng và chất lượng phân chim ở Hoàng Sa. Nhưng được phép khảo sát ở hòn đảo nào lại do bộ phận quản lý đảo quy định chứ không thể tự do như những chuyến đi thăm dò mở trên đất liền. Anh Bảo đem máy đo đạc, xác định tọa độ kinh vĩ xong là chúng tôi bắt tay vào việc đào hào thám sát. Hào đào rộng mỗi bề một mét, sâu xuống hai đến ba mét, tùy nơi, chỗ cát ào xuống thì đem gỗ chèn. Gặp đá san hô rắn thì dùng búa đục. Trữ lượng phân chim ở đây có tới vài vạn tấn, chất lượng vào loại tốt, trong đó có chất diêm tiêu làm thuốc súng, có nitrat kali đem bón ruộng càng tốt. Phân tích tụ đã từ rất lâu đời, có chỗ dày tới ba mét. Hào đào xuống vài mét đã thấy một thứ nước khoáng rỉ ra, màu hơi vàng vàng. Bộ phận hóa nghiệm cũng phải làm phân tích cả thứ nước khoáng này.

Ông Kỳ là người Việt, nhưng học ở Pháp, vào làng Tây, là một kỹ sư giỏi thực sự, do ở Pháp lâu nên có phong cách giản dị dân chủ, không quan dạng như mấy anh công chức người Việt khác. Vả lại chúng tôi cũng quen phong cách làm việc đến nơi đến chốn và thực sự tuân thủ các quy trình kỹ thuật chuyên môn. Sau khi phân tích, ghi chép đầy đủ vào bulletin d’analyse (phiếu trích yếu phân chất), kỹ sư Nguyễn Kỳ xác nhận, ký tên; cả mẫu quặng cùng hồ sơ hằng ngày đó được phong lại, gắn xi, cặp dấu, chờ gửi về Hà Nội. Mỗi tuần một chuyến tàu của nhà binh Pháp chở các nhu yếu phẩm, kể cả nước ngọt, thư từ ra đảo và nhận chuyển các thứ từ đảo về đất liền. Điều chúng tôi còn chút phân vân lại ở một điểm khác: Những kết quả khảo sát này chỉ hoàn toàn phục vụ cho sở mỏ Đông Dương hay ông Kỳ còn kết hợp cung cấp cho một công ty tư nhân nào đó đang có ý định bỏ vốn vào việc khai thác nguồn phân chim Hoàng Sa này chăng?
Theo thể lệ của chính quyền Đông Dương hồi bấy giờ một công ty tư nhân nào muốn khai thác khoáng sản trước hết phải được phủ Toàn quyền cấp cho giấy phép đi tìm mỏ (autorisation de rechercheminiere ), có giá trị trong ba năm.
Khi đã chọn được vùng đất cụ thể nào đó mới làm bản đăng ký xác định vị trí (toucher périmètre), trước khi chính thức khai thác còn phải có giấy phép, làm thủ tục xin lập khu nhượng địa (concession Périmètre) và bắt đầu nạp thuế theo diện tích rộng hẹp – tính bằng héc-ta của khu nhượng địa đó. Giữa các công ty tư bản, cùng người Pháp, cũng thường xảy ra những vụ tranh chấp với nhau khá rắc rối. Anh đăng ký sau, muốn cướp miếng béo bở của anh cắm trước, dùng mưu khoanh vùng đăng ký của mình rộng hơn, bao trùm lấy cả khoảnh đất của anh kia để hớt tay trên. Có anh chỉ xin cắm vùng đất không có quặng mỏ gì, nhưng bịt mất đường vận xuất của anh có mỏ, buộc anh này phải thuê đất của anh ta để làm đường ra vào và xây dựng các công trình cần thiết khác. Nhóm tư bản nào đó muốn bỏ vốn ra khai thác mỏ phân chim ở Paracel này mà có được một người nhận làm tay trong cho ở sở mỏ, khỏi lo gì sự bất trắc vì tranh chấp.
[​IMG]
Báo La Nature số 2916 ngày 1-11-1933. Cả ông Nguyễn Kỳ và chúng tôi đều chung một tâm lý làm công việc khảo sát này xong càng sớm càng tốt để trở về đất liền. Khi chúng tôi ra đảo là đầu mùa hè. Ngày nóng, đêm thì gió. Quần áo không mặc nổi. Anh em bên quản lý đảo cũng như chúng tôi đều cởi trần, đóng khố, đầu húi trọc để cát khỏi mắc lại ở chân tóc. Tắm rửa đều phải dùng nước biển. Buổi tối, bảy tám giờ vẫn còn vầng sáng ở bầu trời phía tây. Buổi sáng, mới hơn bốn giờ đã hừng đỏ ở chân trời phía Đông. Đặc biệt, khi mặt trời nhô lên, nhìn to hơn hẳn khi ta ngắm ở đất liền.
Trong khi khảo sát ở đảo chính, chúng tôi thấy có một bia đá, chiều cao 1,20m, rộng độ sáu mươi phân tây, trên nóc bia có chạm hai con rồng và một mặt nguyệt. Các cạnh đều có hoa văn. Lòng bia có khắc mấy chữ Hán “HOÀNG SA HẢI AN NAM QUỐC”, phía dưới ghi “Gia Long tam niên, ngũ nguyệt, sơ nhị nhật”. Gần đó có một miếu thờ xây dựng bằng loại gạch vồ, nóc cuốn vòm, lòng miếu rộng chừng tám tấc vuông, phía trong có một bát hương bằng đá, có vại nhỏ đựng nước mưa (để làm nước cúng). Bát hương, vại nước, những nén hương cháy chưa hết, và cả những mảnh gốm vỡ quanh đó đều là loại ta thường gặp ở vùng Quảng Nam - Đà Nẵng.
Mấy anh bên cơ lính cho biết, miếu thờ này do dân chài ở Quảng Nam xây cách đây đã khoảng một trăm năm. Mỗi lần ra khơi làm nghề, không bao giờ người ta quên việc mang theo lễ vật ra miếu cầu xin cho được bình an, đánh bắt được nhiều cá, hoặc khi sóng to thì họ neo thuyền vào đảo trú ẩn. Một vài anh còn có cụ kỵ tổ tiên xưa từng được sung vào đội Hoàng Sa, hằng năm từ tháng “trọng xuân” đến trước mùa lũ bão, quan chức phong kiến cử ra đảo để thu nhặt những của cải và các vật quý do các tàu buôn bị đắm các nơi trôi giạt vào đảo, đem về nộp cho Nhà nước những thứ đã quy định; các thứ khác là thuộc về mình. Tâm lý người được cử đi vừa tin có mệnh vua giao, vừa thương các cô hồn đắm thuyền dạt sóng, nên ra tới nơi thế nào cũng có lễ cúng các cô hồn, lại gieo ít hạt giống để mong thành cây cho người đi biển những năm sau biết mà tránh nạn hoặc dễ nhận ra nơi cần tìm đến neo thuyền tránh bão gió.
[​IMG]
Hải đăng Việt Nam trên đảo Hoàng Sa thời Pháp thuộc. Ảnh tư liệu.
Trong thời gian có đơn vị quản lý và chúng tôi ra làm việc ở hòn Paracel, những người dân chài không được phép lên hòn đảo chính này, nhưng họ vẫn ghé lên một số đảo bé hơn ở trong cụm, cách chúng tôi không xa. Những ngày nắng, đánh bắt được nhiều cá, họ đem cá lên phơi. Ngày biển động họ vào đảo chờ biển lặng trở lại để đánh bắt tiếp hoặc đợi thời tiết thuận lợi, dong buồm trở về đất liền.
Khoảng cuối tháng 6-1938, công việc khảo sát của chúng tôi sắp xong, thì đột nhiên các tàu hải quân Nhật kéo đến phong tỏa ở phía ngoài. Các tàu tiếp tế theo định kỳ không ra được. Gay go nhất lúc này là nước ngọt. Trên đảo có một số giếng do dân chài qua lại đã moi lên từ hàng trăm năm trước lấy nước dùng. Bộ phận quản lý đảo nghiêm cấm mọi người, không cho một ai được phép lấy nước giếng để tắm rửa, chỉ để dự trữ dùng cho việc ăn uống. Nguồn nước ngọt chở từ đất liền ra không còn nữa thì nhu cầu về nước cho việc ăn và uống gần bảy chục con người chỉ còn trông vào mấy cái giếng bé nhỏ đó, cho nên phải trân trọng tiết kiệm đến từng giọt.
Nhóm chúng tôi còn thêm một nỗi khổ nữa là việc làm không còn. Ngồi rỗi thấy bứt rứt lạ. Nghịch cá, đuổi bắt cua mãi cũng chán. Hết kể chuyện chinh Đông, chinh Tây, Tây du, lại đến chuyện tiếu lâm, hoặc nghe các truyền thuyết về biển, về đảo, các đặc tính của cá, tôm, sinh vật biển. Có lúc ôn lại những kỷ niệm các lần đi khảo sát mỏ ở những vùng rừng núi: Hễ mệt, nóng thì ào xuống suối tắm, nghe đủ thứ tiếng chim rừng; sau đợt ở rừng về là những bát phở đủ gia vị, rau thơm, những hương vị khó quên ở những nhà hàng đã quen.
Cho đến một hôm, máy bay Nhật từ tàu chiến của họ bay vào đảo quan sát nhiều vòng. Hôm sau, họ cho ba thuyền máy dắt một số thuyền cao su đưa khoảng vài chục lính Nhật kéo nhau lên đảo gặp những người ở đây. Không rõ những sĩ quan và hải quân Phù tang này có nhận ra được những công sự ngầm hay không (trong đó, chúng tôi biết ít ra cũng có các loại súng như mút-xcơ-tông (mousqueton), một số khẩu trung liên “đầu bạc”... tất cả đều được giấu kỹ). Lính Nhật nhờ chúng tôi xúm tay kéo hộ những chiếc thuyền cao su lên bờ, biếu chúng tôi thuốc hút. Họ đi khắp đảo trong khoảng hơn một giờ, dừng lại xem những tấm lưới, đàn cá đang phơi, những dãy thùng mắm. Mấy sĩ quan và lính chừng như có biết chữ Hán, đến ngắm và đọc tấm bia “Hoàng Sa hải An Nam Quốc”. Lão Môn (tây lai) trong vai chủ thầu nghề cá mắm của Nam triều, đem rượu, bia ra mời. Nhưng bọn sĩ quan Nhật không hề dùng đến một thứ gì. Sau đó bọn họ kéo nhau ra tàu, còn tặng chúng tôi mấy gói Poupon – loại thuốc lá của quân đội Nhật.
Ý chừng thấy những người có mặt trên vùng đảo Paracels này không là sự uy hiếp hoặc có thể gây khó khăn bất ngờ gì cho hải quân Nhật ở phía này, nên mấy hôm sau các tàu chiến Nhật kéo đi nơi khác-chắc đương có yêu cầu lớn hơn. Đợt phong tỏa chấm dứt.
Chiếc tàu thủy mang tên “Khải Định” của hải quân Pháp chở đồ tiếp tế ra cho đơn vị ở đảo và đón chúng tôi về Hải Phòng. Chỉ hơn bốn tháng trời mà cả bốn chúng tôi đều đổi khác. Anh nào da dẻ cũng đen nhẻm, nhưng khỏe ra, đặc biệt là không anh nào ghẻ lở. Người ta bảo gió biển không phải có lợi cho tất cả mọi người như nhau cả đâu. Phải tùy theo lứa tuổi và sức khỏe. Gió ban sớm lợi cho lứa tuổi nào. Gió buổi chiều lợi cho lứa tuổi nào. Hồi ấy, chúng tôi còn đương tuổi thanh niên nên có lẽ cả gió sớm hay gió chiều đều có lợi. Trong chúng tôi có anh Hướng vốn mắc bệnh suyễn, nhờ chuyến khảo sát 4 tháng ở Hoàng Sa đó mà bệnh khỏi hẳn. Kể cũng đáng ngạc nhiên.
Hồi làm giám đốc ở mỏ Cổ Định, những con ốc hoa ngũ sắc mang từ Hoàng Sa về chuyến ấy, tôi đã cho bạn bè rất nhiều, cũng vẫn còn một số. Tôi thường đặt ở bàn làm việc. Trưởng đoàn Đảng Hồng Ân và các thành viên trong đoàn chuyên gia Trung Quốc đến làm việc ở Crô-mít Cổ Định trong mấy năm liền cũng thấy những chiếc vỏ ốc đặc sản này.
Những văn kiện, thư tịch về Hoàng Sa, Trường Sa từng còn liên quan đến nước Pháp, đến chính quyền thời Pháp cai trị Đông Dương, đến bà con khác trong vùng. Đó là chưa nói đến nhiều nhà hàng hải, nhiều ngư dân không chỉ Việt Nam mà còn các nước trong vùng giáp cận cũng không ít người từng đến Hoàng Sa trú chân khi gặp gió lớn và thấy được bia chủ quyền của ta như bọn chúng tôi đã từng gặp. Hồi đó, chúng tôi cứ trao đổi bàn cãi mãi: Tại sao ngày Gia Long cho dựng bia lại là “ngũ nguyệt”, “sơ nhị nhật” nhỉ? Thì ra ngày mồng Hai tháng 5 âm lịch ấy từng được coi là ngày Quốc khánh thời Gia Long chính thức lên ngôi Hoàng đế năm Nhâm Tuất, lịch Tây là năm 1802.
Minh Hiệu


Nguồn: Qdnd