Đường ra đảo xa
16/09/2014 06:05 GMT+7
TT - Dưới đây là bài bút ký Ba tháng trên hoang đảo đăng trên tạp chí Phổ Thông, xuất bản tại Hà Nội, số 27 tháng 5-1954.
Trang bìa tạp chí Phổ Thông số 27, tháng 5-1954 và Hai trang trong bút ký Hoàng Sa năm 1954 - Ảnh: Lại Nguyên Ân sao chụp |
Bút ký này của tác giả Mạnh Thư, được đăng ở số gần như là cuối cùng của Phổ Thông, kể về chuyến đi biển của mình hồi cuối năm 1953 và ba tháng sống trên quần đảo Hoàng Sa, khi đó do quân đội quốc gia VN cai quản.
Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân sưu tầm và giới thiệu cùng bạn đọc.
Tôi tình nguyện xin đi Hoàng Sa để biết cho tường tận ở đảo bé nhỏ mà người ta đã nói đến từ một câu sấm truyền “Bao giờ sen mọc bể Đông...” đến câu chuyện rất mới quân đội Trung Hoa đỏ muốn tranh chấp trên... mặt báo!
Muốn ra Hoàng Sa phải đến Đà Nẵng (Tourane). Từ Hà Nội dùng đường hàng không VN, đi ôtô xuống Cát Bi rồi lên máy bay vô Nam.
Tôi tạm biệt đô thành một ngày gió bấc. Máy bay bốn động cơ từ Hong Kong ghé lại, gần 13g trưa mới cất cánh. Nữ chiêu đãi viên phát bông nút tai và ân cần đưa chăn len cho từng hành khách. Dừng lại ở phi trường Phú Bài (Huế) chừng 15 phút, máy bay lại vội vã lên đường, trốn một cơn mưa sắp tới.
Xuống Đà Nẵng, tôi vẫn giữ y phục len trong khi người ta còn mặc quần áo trắng cộc. Thời tiết đã khác hẳn. Từ 18-11 là ngày bỏ Hà Nội, đến 23-11 mưa gió tơi bời, một chốc ngớt rồi lại mưa tầm tã, nhiều nhất về đêm. Tôi nóng lòng muốn ra ngay đảo nhưng ngày lại ngày vẫn không có tin gọi.
Cho tới chiều 23 mới thấy tùy phái đến báo sửa soạn mai sớm ra tàu. Tối hôm đó, tuy ngoài trời còn rả rích, tôi cũng cố bắt nghe tin tức khí tượng. Đài Pháp Á báo: “Trung Hải còn gió mạnh, biển nhăn sóng nhưng đã yếu dần” (Trung Hải: biển miền Trung Việt Nam).
Sáng sớm 24-11, lội những vũng nước mưa ngập lúc tối, ra bến thì xuồng máy đã chờ, đón khách ra tàu, thông báo hạm L.G. Chuyến đi này khá đông, một trung đội Việt binh đoàn ra thay trung đội cũ ngoài Hoàng Sa, lại còn binh sĩ ra cù lao Ré (ngang Quảng Ngãi).
Ra khỏi núi Tiên Sa, sóng xanh cuồn cuộn, con tàu say nghiêng ngả. Chả mình tôi, anh em binh sĩ cũng say sóng, nôn thốc tháo. Gió nổi mạnh, sóng tràn qua boong. Hòm xiểng xếp trên boong nếu không chằng kỹ dây chão chắc chắn rớt xuống biển đến hết mỗi khi tàu tròng trành. Tôi không còn mấy sức lần ra thành tàu, đành ngồi tại chỗ mà nôn ọe.
Một thủy binh dìu tôi vào phòng thuốc, dưới trời mưa tầm tã, trên boong tàu lạnh, vì sóng vì gió vì mưa, anh kêu người khán hộ cho tôi thuốc. Phòng sát buồng máy.
Tôi có cảm tưởng vào hỏa ngục, phần thì tiếng động cơ ầm ầm, phần thì hơi lửa sừng sực, đầu nặng mà dưới chân tàu lảo đảo, không khí thật ngạt thở. Tôi nuốt không hai viên thuốc Nautamine, người thủy thủ lại xốc nách đưa tôi ra và an ủi: “Không sao đâu, ngoài trời có gió anh sẽ dễ chịu trong chốc lát”.
Tôi cảm ơn, lại ngồi phệt trên mặt hòm, bám hai tay vào cạnh hai hòm khác cho khỏi mất thăng bằng, mỗi khi tàu xiêu lệch. Cũng may, mỗi lớp sóng tràn qua boong lại cuốn hết rớt rãi của mọi người. Xung quanh tôi không còn ai trông ra hồn, người nào cũng mặt xanh nanh vàng, ngồi rù thảm hại chịu đựng hình phạt.
Sóng cứ nổi, mưa cứ rơi, gió cứ thổi, tàu cứ tròng trành, cho đến lúc tỉnh một giấc ngủ chợp thì trời tạnh, người có tỉnh táo nhưng đứng lên chân vẫn chập chờn. Cứ tính tàu chạy 18 giờ thì đêm nay phải ngủ dưới tàu. Tàu còn ghé cù lao Ré để một ít binh sĩ lên đảo rồi mới ra Hoàng Sa. Chuyến đi này mệt nhất, khổ vì say sóng lại khổ phải ở lâu dưới tàu.
Tôi cứ ngồi trên boong ngắm bóng đen tràn mặt biển, thấm thía với câu thơ: Lòng quê dờn dợn vời con nước/Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Thủy thủ đã treo võng lấy chỗ nằm. Tôi xuống buồng (cabin) tìm một chỗ ngủ. Sóng đã nhẹ, con tàu đu như đánh võng. Tôi phải nằm tận trong cùng ghế cho khỏi ngã. Tiếng sóng vỗ chập chờn xa vắng, ngủ thiếp lúc nào không nhớ, không còn quan niệm gì về thời gian.
Biển lăn tăn sóng, nước xanh như chàm. Tôi lên boong rất sớm, tựa thành tàu. Một thủy thủ đi ngang qua bảo tôi: “Sắp đến rồi đó!”.
Theo phía tay chỏ, tôi thấy bóng mấy cù lao xanh mờ. Rất lâu sau đó Hoàng Sa mới hiện rõ ràng. Đảo lớn dần với bóng cây um tùm. Binh sĩ sửa soạn hành lý trong khi tàu tiến về phía đông rồi buông neo tại đó. Hai xuồng bỏ xuống, mọi người lo chuyển hành lý. Nhìn lên đảo thấy lố nhố bóng người ra đón ngoài đầu cầu.
Tôi theo chuyến canô thứ nhất vào bờ. Tuy vậy, vì nhiều đá ngầm, cách bờ khoảng 4-5 thước phải lội biển đi vào, chỗ đó đá mọc lởm chởm nhưng cũng may có nhiều cát. Nước xanh trong suốt đáy, chân giẫm lên cát mịn của đất liền, nước thì mát lạnh, có lẽ cả cái thú đến đích nữa nên tôi tỉnh táo lạ lùng trong khi người đi sau than: “Say sóng không còn biết ông trời bà đất là gì nữa!”.
Trao lại thư từ và đứng nói chuyện với đồng nghiệp một lúc, tôi cáo thoái về trước nghỉ ngơi và thay áo quần nhơ nhớp. Theo đường chính tôi vào, hai bên đường những cây hoang dại không tên không tuổi mọc tươi tốt như rừng. Những chòm cây đó không cao quá đầu người cũng cản được gió mạnh.
Hoàng Sa, tên chữ Pháp là Pattle. “Hoàng” là vàng và “Sa” là cát. Cát vàng. Tuy vậy Hoàng Sa không có cát như cát ở bãi sông, những mảnh san hô, những mảnh vỏ trai ốc vỡ vụn nhỏ như cát già và cũng êm chân như cát. Và nếu cát già (của đá cuội) vàng thẫm thì cát Hoàng Sa vàng nhạt như ngà.
Hoàng Sa là đảo chính, có người ở, tất cả 40 người, 35 binh sĩ Việt Nam và năm người của Sở Khí tượng; không có bóng dáng đàn bà quanh năm. Đó là một điểm đáng để ý khi nói chuyện Hoàng Sa. Hoàng Sa ở trong quần đảo Hoàng Sa (Archipel de Paracels).
Trên bản đồ Hoàng Sa hơi giống hình chữ nhật, cù lao Robert hình trứng và cù lao Boisée, vẫn theo đồ bản, phảng phất như chiếc lá trầu. Hoàng Sa rộng lớn bằng hồ Hoàn Kiếm, giá đem được về Hà Nội, đặt vào hồ thì... vừa xinh!
Đảo ở một vị trí quan trọng về quân sự, cũng quan trọng với Sở Khí tượng, vì trạm Hoàng Sa ở giữa biển báo chiều gió, sức gió với nhiều chi tiết chuyên môn mà biển miền Trung thì nhiều dông tố. Độc giả hẳn chưa quên trận bão vừa qua dọc duyên hải Trung Việt, nặng nhất ở Huế, các báo hằng ngày đều có tường thuật.
Phổ Thông là tạp chí ra hằng tháng của Hội Ái hữu cựu sinh viên Trường Luật, Hà Nội, xuất bản từ năm 1951-1954, thường đăng những bài nghiên cứu, bài giảng về luật, về kinh tế - xã hội của các giáo sư, giảng viên đại học một số ngành xã hội nhân văn ở Hà Nội đương thời. Bên cạnh phần khảo cứu, tạp chí cũng có một số lượng bài là tác phẩm văn học của các tác giả người Việt hoặc dịch các tác phẩm văn học nước ngoài Hiện nay có thể vẫn tìm lại được những bài báo, những ghi chép tương tự như bài bút ký này, trên sách báo thời trước. Song nguồn tài liệu này chắc hẳn không thể nhiều thêm nếu không nói là đang trở nên hiếm dần. Bởi vậy, tôi nghĩ nên giới thiệu lại với bạn đọc ngày nay. Đây đương nhiên cũng là bằng chứng về chủ quyền, về sự hoạt động, sự quản lý của nhà nước, của người Việt đối với quần đảo Hoàng Sa, ngay trong thời gian đang diễn ra chiến tranh Đông Dương (1946-1954).
LẠI NGUYÊN ÂN
|
Hoàng Sa du ký 1954 - Kỳ 2:
Đây, Hoàng Sa, Vương quốc An Nam...
17/09/2014 12:35 GMT+7 TT - Từ đầu cầu - cũng có người gọi là cầu tàu - là chỗ xuồng áp bến, chạy dài một con đường chính lối vào trung tâm đảo. Đường thứ hai song hàng.
Trạm thu phát sóng radio và trạm khí tượng do người Pháp xây dựng trên đảo Hoàng Sa (ảnh chụp năm 1940) - Ảnh tư liệu |
Bia khẳng định chủ quyền Việt Nam do một đơn vị lính bảo an người Việt dựng trên đảo Hoàng Sa vào tháng 6-1938. Trên bia có khắc những dòng chữ bằng tiếng Pháp: Cộng hòa Pháp - Vương quốc An Nam - Quần đảo Hoàng Sa 1816 - Đảo Hoàng Sa 1938 - Ảnh tư liệu của UBND huyện Hoàng Sa |
Con đường trên hai đoạn đường, kẻ chéo thước thợ, ra biển về phía bắc. Đường dưới thông bốn đường ra biển về phía nam. Các đầu đường, sát biển đều có xây pháo đài phòng ngự cuộc đổ bộ.
Hai tòa nhà quy mô rộng rãi, một tòa to nhất là đồn, trên sân thượng có chòi canh, trên chòi canh có xây hải đăng, kính dày, ngày trước tối đen, có thắp đèn bão (lampe de tempête) soi đường cho tàu bể.
Nhà thứ hai, kiểu villa, nhỏ hơn, còn rộng tới bảy buồng và hai gian con (buồng tắm) là trạm khí tượng, có bàn giấy trạm trưởng, phòng làm việc chung, buồng máy, phòng ngủ, phòng ăn.
Mỗi tòa nhà còn những lớp nhà ngang, phụ cận ba bốn căn; bên đồn làm điếm gác, phòng nguyện, buồng ngủ, nhà bếp; bên khí tượng dùng làm kho vật liệu, bếp nước.
Một lớp nhà ngang như thế bị hoàn toàn phá hủy vì bom Mỹ. (Trong thời gian Thế chiến thứ hai, quân Nhật đóng quân trên nhiều đảo ở Hoàng Sa, Trường Sa - BT)
Phía đông bắc và tây nam đảo có xây hai cái mốc, bắt biển đồng, ở trên ghi:
République Franc5aise
Empire d’ Annam
Archipel des Paracels
1816 ile Pattle 1938
Sau trạm khí tượng, về phía nam (hai tòa nhà đều xây hướng bắc) có khu rừng thông nhỏ vài ba chục gốc. Giữa rừng dựng một cái mốc ximăng, chữ kẻ sơn màu xanh nhạt:
1946 ile Pattle reprise de possession 21 Mai par 21 fusiliers marins du RBFM (ngày 21-5-1946 đảo Hoàng Sa được giành lại bởi 21 tay súng lính thủy thuộc đơn vị...) dưới kê danh sách cả hai mặt: E.V. Vaury, Thoraval, Hasoero, Moreau, Allano, Martin... Kẻ sơn lâu ngày chữ mờ, lại khuất cỏ ở phía dưới mốc, rất khó đọc.
Ngoài rừng thông trồng một chỗ, còn lẻ tẻ bên đường đôi ba gốc. Đường ra biển, cửa sau đồn, còn thấy ba gốc dừa, hai gốc thối hoàn toàn, bị chặt ngang, còn một cây chắc không hợp thủy thổ lá úa héo hắt.
Ngoài ra toàn là những bụi hoang dại mọc xanh tốt, dày đặc thành rừng. Có đến hai ba giống, một giống lá xanh bóng, một giống lá có lông như tráng bạc, làm cảnh thì đẹp nhưng vô tích sự, họa chăng chặt cành về làm củi.
Giống trời sinh, phát đi ít nhưng mọc lan ra nhiều, xanh mượt, xanh ngút ngàn. Ở trong nhà lá xanh che cả chân mây mặt bể, lá to bản và dày. Ai cũng ước ao giá là rừng cà phê, tươi tốt thế này thì quả nhiều phải biết!
Nhưng cây trồng thì còn thứ nào chịu được gió ở đảo, và mùa nực chịu sao được sức nóng của cát? Đất không phải đất thịt, lại không phải đất màu mỡ, toàn cát và vụn san hô.
Đất lâu ngày vón với nhau rắn như đá. Cây bị động gốc lại gió suốt đêm ngày mà không phải gió nhỏ, thường cũng 12-16 nœud (nœud là hải lý, 1.852m) một giờ, lên làm sao được? Chỉ có bốn gốc đu đủ, hoa sai mà ít đậu quả.
Trên đường rau sam mọc hoang, lá đỏ cạch. Cỏ chỉ mọc từng chỗ. Nhất về mạn đầu cầu và phía tây nam, dây muống bể có sợi rút dài trên mười thước, bò ngổn ngang. Rừng dày đặc cành lá, khó mà len được lối đi, ở trong thêm dây tơ hồng chằng chịt quấn như mạng nhện.
Dọc theo đường lớn ra biển, phía tây nam, giữa rừng cây sầm uất có một chỗ trống sạch sẽ phẳng phiu, trên đó nổi một thềm nhà cao ráo, thềm miễu Bà, dựng một gian, nhìn ra biển cả. Trừ lúc đèn nhang mở, còn thì khép cửa chính.
Hai bên, cửa sổ mắt cáo lấy ánh sáng vào trong. Miễu thờ Phật, có tượng đá, tay cầm lư hương, tạc cao bằng đầu người. Cửa miễu, dưới ba chữ “Kim sa am” có đôi câu đối, cũng đắp mảnh sứ như bức hoành trên:
Độ nhân vô lượng sắc không môn,
Lễ Phật thậm thâm công đức hải
Bên cạnh miễu là nghĩa trang lặng lẽ với chín phần mộ, năm nấm có mộ chí ghi tên người bất hạnh, quê quán và ngày tạ thế. Còn bốn ngôi đầu mộ trồng miếng ximăng không ghi gì cả. Chắc có một huyệt đã cải táng, chỗ lũng còn cắm một thập tự giá bằng gỗ.
Phía tây nam suốt ngày vắng vẻ, u uất, biển mạn ấy sóng cả quanh năm, trắng xóa, cuồn cuộn. Sau miễu đổ nhào một cái chòi canh bằng sắt, những thanh sắt dày, gỉ hết cả, công trình phá hoại của thời gian.
Tìm kiếm mãi mới thấy hai gốc bí đao, một gốc bí ngô, ngọn bò lẫn cỏ, anh em trước giồng.
Đấy, quang cảnh Hoàng Sa.
Ở đảo ai cũng lo lương thực. Lương thực chỉ trông vào tiếp tế, cả gạo lẫn thực phẩm, các vật dụng từ cái cuốc làm cỏ đến cây kim vá áo đều từ đất liền đưa ra. Mỗi tháng tàu ra một lần. Ngày tàu ra náo nhiệt, song lại trở về chuỗi ngày buồn.
***
Ngày 25-11 - Trưa 26, tôi tập việc cho quen và sáng 27 làm một mình. Nhân viên của sở có bốn người, hai người làm vô tuyến truyền thanh, hai người làm chuyên viên khí tượng.Một phạm nhân, anh Nao, thổi cơm và quét dọn vặt. Vừa làm hết việc tôi đã ra ngay bãi, định đi một vòng. Mới ra, chưa kịp nhận phương hướng, gặp đường là về, mới thấy chưa hết một vòng đảo.
Đảo không nhỏ lắm như đã tưởng tượng. Ở Hà Nội vòng hồ Gươm không thấy mỏi vì cảnh đẹp bên đường, vả lại lối đi phẳng phiu; đi vòng đảo là đi trên cát, cũng có chỗ bãi xuống thoai thoải, cát êm, có chỗ nhiều cát, dốc hẳn xuống một thước bề cao, thứ cát to hạt đi lún cả guốc, chân nặng sa lầy nên chóng mệt.
Biển cố nhiên đẹp, đẹp cả ngày nắng lẫn ngày mưa, đẹp trong cái mênh mông hùng vĩ, khi phẳng lặng với vài đợt sóng uốn éo dịu dàng như cô gái đùa với em thơ, khi giận dữ cau có bạo tàn như thiếu phụ nổi cơn ghen, sùi bọt mép thúc sóng cả vào bờ, lùi ra lấy đà để rồi gào thét chúi đầu vào tình địch.
Ra biển, tâm hồn tự nhiên êm ả vì người bé nhỏ quá trước thiên nhiên, trước cao cả, cảm thấy sâu xa sự đua chen danh vọng tiền tài là hèn mọn.
Ở bãi biển giả dối không còn nữa, quần áo sang trọng đắt tiền là thừa, ai cũng dễ dàng như ai, trần một mảnh vải, dáng điệu tự nhiên, mất hết những cử động học đòi, những lối ngồi kiểu, những bước uốn éo, ve vẩy đôi tay thừa.
Nằm, ngồi, đi, đứng chỉ cần thoải mái, không câu nệ bẩn áo quần, muốn lăn vào thiên nhiên sống tự nhiên như buổi sơ khai. Biển nổi sóng thì tâm hồn cũng sôi nổi những ý tưởng cao siêu, những quan niệm tuyệt mỹ của vẻ đẹp lớn lao, không giả tạo, không tủn mủn.
Xa khơi biển xanh như chàm, xanh rất đậm, ngả sang màu thiên thanh, màu bích ngọc, màu quan lục chỗ nông. Nước vỗ bờ thì xanh trong suốt đáy. Đây đó sóng bạc đầu tung bọt trắng ngần...
Màu sắc tuyệt diệu như thế, thanh âm là một hòa tấu nhịp nhàng. Biển cồn ngày mưa, gió gào như rú, sóng đổ ầm ầm, mưa rơi lốp đốp; biển lặng sóng êm, gió đứng, mây ngừng, chập chờn đôi cánh chim không vỗ cánh.
Biển sôi trong đêm tối mịt mùng, vài ngôi sao lấp lánh trên trời và đáy biển, cho người ta chợt nghĩ đến bề rộng và bề sâu.
MẠNH THƯ
Hoàng Sa du ký 1954 - Kỳ cuối:
Những ngày thường giữa khơi xa
18/09/2014 06:05 GMT+7 TT - Sáng 30-11, Sang chơi bên đồn hỏi chuyện anh em đội viên: "Giũa gì đấy? Ra biển chơi đi!".
Đào giếng lấy nước ngọt trên đảo Hoàng Sa (ảnh chụp năm 1938) - Ảnh tư liệu |
À hay! Ông này ở tiểu ban bắt cá. Có chuyện viết rồi đây!
- Ông câu chơi đấy chứ?
- Không, cách tiếp tế khó khăn, anh em tôi tự túc. Trong đất liền đời sống đã đắt đỏ, giá hàng đột ngột cao vọt lên với đồng bạc hạ giá, nếu thức gì cũng mua thì lương binh sĩ chả còn bao để giúp gia đình. Ở hoang đảo này giải quyết bằng cách nào nếu không chịu câu cá mà ăn!
- Đất này trồng tỉa được không?
- Cát san hô còn có gì màu mỡ? Ta ra vụ này là mùa rét còn nóng thế này. Ra ngoài giêng hai nóng nữa, tháng ba, tháng tư đã thấy thời tiết mùa hè, cát nóng như rang, cây nào lên được?
- Nuôi gia súc được không hở ông?
- Bò, dê thì tốt lắm. Thầy xem cây cối thế kia, thả chúng tự do thì chóng sinh sản, nhưng ở tháng ba đã về, chưa gây xong cơ sở thì ai muốn trông nom.
Cũng có cỏ đấy, ngày xưa nuôi bò phải giữ cỏ cho bò ăn. Thầy có thấy giếng nước (abreuvoir) xây trên cỏ đấy chứ? Nhưng nuôi gia súc phải có vốn, anh em tôi ai đưa ra được?
- Các ông chia công tác thế nào?
- Chia từng tiểu ban: tiểu ban bắt cá được miễn công tác vặt, tiểu ban bếp nước luân chuyển 10 ngày một lần, tiểu ban này ba người. Bắt cá thì chừng 6-7 người, không thay đổi, phần đông có nghề chài lưới, hoặc không thì cũng là người biết lội (bơi).
Ngoài ra còn phải trông nom vệ sinh, nhặt cỏ, rẫy đường, quét lối đi, lấy củi, không kể công tác chính của quân nhân: gác trên chòi canh hoặc đi tuần đêm quanh đảo.
- Gác trên chòi làm gì?
- Để đánh kẻng báo hiệu khi thấy bóng tàu, thuyền. Thuyền, tàu thấy từ xa, gõ hai tiếng kẻng, khi thấy tiến vào đảo thì gõ một hồi cấp báo.
Tàu bay đánh ba tiếng. Tàu bay nhìn thấy rõ hay khi khi mây u ám, chỉ nghe tiếng động cơ cũng đánh ba tiếng.
- Từ trên chòi có thấy rõ quốc tịch tàu thuyền qua lại không?
- Ít khi nhận rõ vì xa quá. Với lại họ có kéo quốc kỳ mới phân biệt được. Máy bay thì xem cờ vẽ đằng lái, cao ba nghìn thước thì cũng chịu, có khi không nhận rõ kiểu máy bay là Dakota hay Box-car, chứ đừng nói đọc số máy. Qua Hoàng Sa là máy bay đi Hương Cảng, Philippines.
- Tàu gì qua lại miền này?
- Tàu buôn và tàu tuần tiễu hải phận. Cũng có tàu đánh cá của một công ty ở Hong Kong, hình như của người Anh, thủy thủ phần đông là Nhật. Cũng có hôm thấy thuyền mành giương đến ba buồm.
Đây là giấy chứng sinh của bà Mai Kim Quy, sinh ngày 7-12-1939 tại đảo Hoàng Sa. Cha bà Kim Quy là ông Mai Xuân Tập, nhân viên khí tượng đảo Hoàng Sa - Ảnh tư liệu |
Xa tắp, vài bóng cô quạnh đứng dưới nước, mực nước đến ngang hông, lặng lẽ buông cần. Chẳng ai nói với ai nửa lời, chăm chú nhìn phao và chăm chú nhìn đàn cá lượn lờ.
Thỉnh thoảng một người giật cần, một con cá cong mình vùng vẫy đầu dây cước. Ông ta gỡ cá buộc vào xâu. Kiên nhẫn như thế hàng 2-3 giờ cho đến khi nào xâu cá đã dài mới bì bõm lội lên, hút - để tự thưởng - một điếu và nghêu ngao trên đường về.
Ở một góc biển khác, trên những tảng đá mấp mô, sóng vỗ tung tóe, những chàng trai khỏa thân đứng rình đàn cá. Trước mặt họ chỉ có nước với trời.
Nước dồn dập đến, bọt trắng rào rào trên mặt biển xanh ngắt màu bích ngọc, gió trùng dương thổi lộng mớ tóc đen mun.
Sức vóc vạm vỡ của họ, dáng điệu tự nhiên của họ nổi lên như cắt trên một khung cảnh hùng vĩ, trông đẹp và khỏe làm sao!
Tản bộ trên cầu thấy luôn những con còng (cua) màu xanh, mình dẹt, to bằng cua đồng ở trung châu. Còng đi rất nhanh, thấy bóng người là chạy vụt xuống nấp dưới khe đá.
Yên lặng một lúc các chú lại bò lên đi nghênh ngang, mặc những con sóng ào đến. Trên những tảng đá rêu xanh còng càng nhiều. “Ốc mượn hồn” bò chậm chạp trên cát.
Những hôm đầu tháng trăng non, những hôm giữa tháng trăng tròn, nước triều rút. Biển cạn, nhấp nhô trên mặt nước nông những tảng đá san hô.
Cả phía đông nam đập nổi một vùng, lởm chởm những cành san hô gãy, những vỏ ốc vỡ. Xa ra hàng 3 cây số làn sóng xanh lượn lờ.
Biển nhiều san hô sắc nên ra biển phải đi giày, thứ giày đế cao su có cổ như kiểu pantaugas, để cả giày mà lội nước bì bõm.
Từ tinh sương, cả đảo - trừ những người bận - gọi nhau dậy ăn sáng để còn ra biển. Có những người đi sớm từ 5g, lội nước ngang bụng, ra xa đến 4 cây số, đến nơi nước xuống ngang ống chân để có nhiều thì giờ.
Đi như thế người nào cũng mang theo dụng cụ: một thanh sắt để bẩy đá, một con dao để cắt gân ốc, một túi rết (muselière) để nhặt nhạnh.
Ra muộn, 6g -7g, lúc nước cạn sát bờ, cạn đến cổ chân, nghe vang vang từ xa dội lại tiếng “cách cách” đập vỏ ốc mà tuyệt nhiên không thấy bóng người.
Dưới những tảng đá san hô xâm xấp nước thường luẩn quẩn mấy con cá, mấy con cua, đôi khi mấy con mực nhỏ và nhiều thứ ốc.
Ra biển ai không đi biển? Hoạt động cho đỡ buồn, cho quên thời gian, cho đỡ ốm, cho biết. Trời mênh mang, biển mênh mang, không khí trong lành, cảnh vật tưng bừng với ánh bình minh rực rỡ.
Biển thêm xanh, rong thêm biếc, mây biến sắc lúc mặt trời trườn khỏi mặt biển mờ sương lam. Gió phần phật tà áo, thổi tung mớ tóc, gợn mặt biển những con sóng nhấp nhô.
Những người khách lạ Dưới đây là đoạn trích trong Hoàng Sa qua những nhân chứng, Tập san Sử Địa số 29, phát hành tại Sài Gòn tháng 1-1975: Người Việt vốn quý khách. Khách tới, đi canô hay xuồng nhỏ vào đảo là được tiếp đón niềm nở. Nhất là khi khách gặp cơn hoạn nạn cần phải cứu giúp. Khách lạ tới là những lúc vui vẻ. Nhưng đôi khi anh em cũng thấy những triệu chứng khác thường. Một lần, trước năm 1970, một bọn người không rõ quốc tịch lên bờ xin nghỉ ngơi. Họ nói tàu đánh cá của họ bị bão. Khách lạ thì ta có từ chối bao giờ đâu. Rồi các anh lính Việt Nam bỗng chú ý đến bọn này vì họ đem theo một tấm giấy lớn, mở ra thì biết là tấm bản đồ của quần đảo Hoàng Sa. Thế rồi chẳng có gì xảy ra cho tới giữa tháng 1-1974. Sau vụ xung đột ở Hoàng Sa lúc đó (tức trận hải chiến Hoàng Sa), anh em mới vỡ lẽ các tàu đánh cá là tàu do thám ngụy trang. Vì lúc dự trận, trên đài chỉ huy của tàu cá Trung Quốc kéo ra hai cây đại liên, còn hai bên mạn tàu có những ô vuông chĩa ra những họng súng... TRẦN THẾ ĐỨC |
Nguồn: Tuoitre
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét