Tìm kiếm Blog này

Hiển thị các bài đăng có nhãn Địa lý. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Địa lý. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 30 tháng 1, 2016

Mỹ đang thách thức yêu sách quá đáng của Trung Quốc ở QĐ Hoàng Sa

FB Song Phan
30-1-2016
Ngày 30/1/2016 nhiều báo (chẳng hạn như CNN: Hải quân Mỹ phái tàu chạy gần đảo tranh chấp ở Biển Đông – Xem bản dịch cuối bài) cho biết, Mỹ đã cho tàu khu trục tên lửa điều khiển lớp Arleigh Burke chạy trong vòng 12 hải lí đảo Tri Tôn. Bộ Quốc Phòng cho biết, hoạt động này của Mỹ là để thách thức các yêu sách quá đáng của các nước có yêu sách ở đây.
Theo những gì tôi biết, tới giờ thì chỉ có TQ yêu sách quá đáng (vẽ đường cơ sở cho cả quần đảo mà theo UNCLOS chỉ nước quần đảo như Philippines hay Indonesia… mới có thể làm việc này, trên cở sở đó yêu sách lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế EEZ dưa theo đường cơ sở đó) và đảo Tri Tôn có nhiều khả năng là một đảo đá (tức có thể có lãnh hải 12 hải lý, không có EEZ…). Do đó, nếu Mỹ theo đúng lập trường, không đứng bên nào về vấn đề chủ quyền ở Biển Đông và tôn trọng UNCLOS thì khi chạy vào khu vực 12 hải lý của Tri Tôn, phải theo chế độ ‘đi qua vô hại’ (tắt radar, không cho trực thăng bay lên…).
Bộ Quốc Phòng Mỹ cũng cho biết là không báo cho các nước liên quan biết về hoạt động này. Điều đó có nghĩa là họ cũng thách thức quy định phải ‘báo trước’ (trái với UNCLOS) của Tàu.
Để mọi người dễ theo dõi, xin post lên bản đồ khu vực quần đảo Hoàng Sa, có vẽ luôn đường cơ sở quần đảo HS (theo quy định của Tàu) và lãnh hãi 12 hải lý tính từ đường cơ sở này. Tôi cũng vẽ thêm lãnh hải của Tri Tôn.
Nếu Mĩ chơi ‘ngon’ như báo chí nói (thách thức yêu sách quá đáng của Trung Quốc) thì cho tàu chạy theo đường đỏ (như tôi vẽ trên bản đồ) đến đoan AB (thuộc lãnh hải của Tri Tôn) thì chuyển sang chế độ đi qua vô hại, hoặc chay theo một lô trình tương tự vậy. Khi đó Mỹ vừa thách thức yêu sách quá đáng của Tàu vừa thách thức quy định phải báo trước.
Lưu ý, đường đỏ chỉ là lộ trình giả định do tôi vẽ để minh hoạ thôi chứ chưa biết tàu Mỹ thực tế chạy theo đường nào.
* Tôi có chỉnh bản đồ lại một tí và xin giải thích thêm:
– Chạy trong đoạn CA hay BD là thách thức lãnh hải quá đáng (tính từ đường cơ sở không hợp lệ).
– Chạy trong đoạn AE, tức trong nội hải (phần bên trong đường cơ sở [không hợp pháp]) nên dù theo chế độ gì cũng là thách thức nội hải bất hợp pháp (nội hải có tính chất như lãnh thổ đất liền).
– Chay trong đoạn EB chỉ thách thức đòi hỏi ‘báo trước’ và phải chạy ở chế độ ‘đi qua vô hại’ nếu tôn trọng UNCLOS.

Thứ Bảy, 16 tháng 1, 2016

Đại Tá Bùi Hữu Thư: Ký ức về Hoàng Sa và HQ10

Ký ức về Hoàng Sa và HQ10

bài viết của HQ Đại Tá Bùi Hữu Thư

Khi Pháp rút về, họ để lại trên Paracells một hải đăng và một đài khí tượng, một cầu tầu có cần trục nhỏ. Tôi có nghiên cứu về việc khai thác phân bón ở đây trong cuộc thi giải Văn Hoá Quân Đội do BTTM tổ chức. Ngưoi Pháp đã từng có kế hoạch khai thác phân chim ở đây từ lâu.
TC đã đóng từ lâu trên đảo Boise  (Wooddy) chỉ cách phía băc Hoang Sa có 20 hải lý. Có một chiến hạm đã đến đây thả neo một đêm sáng ra thấy cờ TC mói biết đi nhầm, bèn kéo neo chạy. Sau khi Pháp rút, chúng ta đã đóng quân và đã từng bắt một số ngư phủ TC giải về Đà Nẵng. Điều này minh chứng rõ ràng chủ quyền Hoàng Sa là của Việt Nam.
HQ10 do ĐT Ánh lãnh về và trao cho tôi tại Phú Quốc. HQ10 sau đó đã cùng HQ11 do Ông Đào chỉ huy tham dự lễ khánh thành cầu tầu mới của căn cứ Hải Quân Đa Nẵng ở Tiên Sa năm 1964.
Khi hai chiếc cặp cầu tầu có sự chứng kiến của TL/HQ và các tướng lãnh và quan khách Việt Mỹ. Hôm đó gió mùa đông bắc thổi mạnh, tôi phải cặp cầu phía trên gió, khá run, vì va cầu tầu ngay chỗ khán đài thì mình đi đoong. Nhờ thả neo mũi nên đáp rất êm, và khi tách ra cũng dễ dàng. HQ10 đã có mặt tại bốn vùng duyên hải và đã có nhiều chiến công hiển hách tại vùng 1, 2, và 3. Rất tiếc lại phải chìm vào lòng biển sâu cả ngàn thước.
Đúng 10 năm sau thì tầu chìm mang theo HT, HP và bao nhiêu anh em HQ trong đó có nhiều người đã từng đi với tôi.
Tôi có dịp ra Hoàng Sa nhiều lần với HQ402 năm 1956, HQ329 năm 1958 1959, tuần tiểu trong hai tháng thường xuyên tiếp tế cho trung đội TQLC đóng trên đảo Duncan, Drummond, và HQ01 năm 1960 để tiếp tế khi bị bão, và phi cơ ra thả dù thì dù bay ra biển. Chuyến tiếp tế của tôi cũng  bị sóng lớn làm cho heo, gá và vịt đều bay xuống biển hết. Chỉ có mấy con bò là còn bị chặn lại. Ngoài đó không có cỏ cho bò ăn, nhưng nhiều cá và bắt rất dễ. Ngoài ra còn có trứng chim hải âu và trứng con vít, nên anh em TQLC không thiếu thức ăn. Họ biến thành người nhái suốt ngày săn cá. Họ chế ra các kiến lặn bằng mắt các đốt tre, và dùng xiên săn cá. Ngoài đảo Duncan có hai nấm mộ anh em TQLC nói là họ mượn mấy tấm ván hòm nằm cho đỡ lạnh đêm đêm bị ma đuổi. Họ xin tôi về Đà Nẵng mua vàng hương, gạch xi măng ra cho họ xây miếu thờ. Họ còn nói là có hai con ma nữ, một tóc dài, một tóc quăn mỗi đêm về thăm mấy anh lính. Sáng ra anh nào xuống biển tắm sớm là đêm trước ngủ với ma.
Hoàng Sa là một miệng núi lửa đã tắt. Lòng chảo chỉ sâu chừng 30 mét, cá nhiều vô kể, ốc tai tượng to bằng cái bàn. Cá đuối to bằng cái chiếu to, đuôi cá to như cái cột. Trên Banc de Corailles chim hải âu đậu xuống đẻ trứng, khi chúng bay lên che cả mặt trời như đàm mây. Con vít cũng lên đây đẻ trứng, ban đêm sách đèn đi lật ngửa nó lên va hốt trứng. Thịt vít ngon như thịt gà, trứng cũng ngon. Đừng ăn thịt đồi mồi mà cả tầu 402 nổi phong ngứa gần chết. Trứng hải âu có thể hốt một lúc cả 3000 trái, chiên hay luộc ăn cũng ngon nhưng hơi hôi thôi. Thịt hải âu thì tanh lắm.
Tôi có kéo 2 sà lan ra đảo Paracels đe khai thác phân bón ở đây năm 1959.
Trước 1974 lúc nào cũng có phi cơ Orion P3 cua HK bay trên đầu mỗi ngày. Vì TC biết Mỹ sẽ không can thiệp nên mới dám tấn công mình. Rất tiếc hỏa lực của HQ10 và tốc độ yếu nên bị thiệt hại nặng. Xin vinh danh những anh hùng tử sĩ trong trận hải chiến Hoàng Sa và chia xẻ với quý chiến hữu vài kỷ niệm về Hoàng Sa và Hộ Tống Hạm Nhật Tảo.
B H Thư

Nguồn: Hqvnch

Thứ Năm, 24 tháng 12, 2015

Một số hình ảnh trên quần đảo Hoàng Sa


Rùa biển trên đảo Phú Lâm, quần đảo Hoàng Sa, Việt Nam, chụp trong cuộc khảo sát năm 1938




Nhân chứng kể chuyện sống ở đảo Hoàng Sa (Trần Thế Đức)

Hình ảnh Vẻ đẹp quần đảo Hoàng Sa số 3

Hoàng Sa Qua Những Nhân Chứng
Trần Thế Đức

--------------------------------------------------------------------------------

(Trích tập san Sử Địa số 29, xuất bản tại Saigon năm 1975)

Biến cố Hoàng Sa xảy ra đầu năm 1974 ở cách xa đất liền nên chỉ những người có mặt trong cuộc mới biết rõ sự việc xảy ra. Về phía Việt Nam, những quân nhân trên các chiến hạm là những người mục kích trận hải chiến; những quân nhân mới đổ bộ lên các đảo cũng biết được một vài sự kiện; những quân nhân đồn trú từ lâu trên đảo, cũng như các nhân viên khí tượng cũng thấy được phần nào biến cố tại quần đảo này.


Với tai nghe, mắt thấy, da thịt xương chịu đựng, và con tim rung động, những nhân vật kể trên ghi nhận được không nhiều thì ít những sự việc xảy ra. Tuy vậy, không ai giống ai. Có ngườic có giác quan bén nhạy. Có người có giác quan lờ đờ. Trí thức của mỗi người được đào luyện cũng khác nhau. Vì thế sự ghi nhận sự việc do mỗi người cũng không hoàn toàn giống nhau.

Thứ Năm, 4 tháng 6, 2015

Công ty Tây Sa VNCH và chính sách khai thác, bảo vệ Hoàng Sa của chính quyền Ngô Đình Diệm

  Võ Hà
  • Thứ hai, 01 Tháng 6 2015 14:52
Sau khi lên “nhiếp chính” tại miền Nam năm 1955, Tổng thống Ngô Đình Diệm cho nhiều đoàn ra điều tra, khảo sát có tính chất toàn diện tại quần đảo Hoàng Sa... Kết quả khảo sát đều phải báo cáo đầy đủ, trực tiếp cho Tổng thống để có cơ sở cho việc chỉ đạo khai thác và tăng cường thực thi chủ quyền tại quần đảo này. Một trong những hoạt động rõ nét là trên lĩnh vực kinh tế.
Chính quyền Ngô Đình Diệm đã ban hành nhiều nghị định cho phép khai thác nguồn tài nguyên ở quần đảo Hoàng Sa. Ngày 01-8-1956, Tổng thống Ngô Đình Diệm ban hành Nghị định số 232-KT về việc cho phép trích xuất ở quỹ quốc gia bù trừ hàng hóa xuất, nhập cảng một số tiền là 300.000 đồng để mua cầu “cubies pontons” dùng vào việc khai thác phốt phát tại đảo Paracels (Hoàng Sa). “Nay cho phép xuất ở quỹ quốc gia bù trừ hàng hóa xuất, nhập cảng một số bạc là ba trăm nghìn đồng (300.000$) để mua ba trăm chiếc cầu “cubies pontons” dùng vào việc khai thác phốt phát tại đảo Paracels. Dụng cụ này sẽ đặt thuộc quyền sử dụng của Bộ Kinh tế quốc gia”[1]. Đây là nghị định đầu tiên nhằm hỗ trợ các hoạt động về kinh tế để khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa. Chính quyền Ngô Đình Diệmluôn có những chính sách ưu đãicũng như khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để các nhà tư bản đầu tư, xây dựng các cơ sở vật chất nhằm phát triển kinh tế tại Hoàng Sa[2]. Đặc biệt, năm 1957, chính quyền đã cho thành lập Công ty khai thác quần đảo Hoàng Sa (Công ty Tây Sa) với những ưu tiên chưa có tiền lệ, trụ sở đặt tại Sài Gòn, do ông Huỳnh Văn Lang, Giám đốc Viện hối đoái Quốc gia làm Chủ tịch.

Một trong những ưu tiên đầu tiên của Bộ Kinh tế Quốc gia của chính quyền Ngô Đình Diệm là ngày 22-6-1957 đã cấp một giấy phép đặc biệt cho phép Công ty Tây Sa xuất nhập cảng theo lối mậu dịch tương tiêu (échanges compensés). Cụ thể là: “Xuất cảng phân bón trị giá 62.000.000VN đồng. Nhập cảng hàng hóa cũng trị giá 62.000.000VN đồng, tính ra là 10.000.000 đôla Hồng Kông. Với sự châm chước cũng đặc biệt là công ty được phép nhập cảng hàng hóa trước và xuất cảng phân bón sau. Ngoài những châm chước trên, công ty còn được hưởng những đặc ân sau đây: Nhập cảng cam ngoại quốc, nhan trừ muỗi, piles sèches là những loại hàng hiện bị cấm chỉ. Được gia hạn giấy phép nhập cảng đặc biệt sau nhiều thời hạn. Tăng số lai xứ và nguyên xứ (trước chỉ có Hồng Kông, Singapo, Nhật Bản và Trung Hoa, nay thêm các nước trong khối Âu, Mỹ, Úc)”[3]. Những ưu tiên nêu trên là rất lớn, thể hiện sự khuyến khích hoạt động kinh tế, chủ yếu là khai thác phân chim gắn với việc thực thi chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa.
Bên cạnh đó, trên cơ sở mậu dịch tương tiêu và tổng số tiền được cho phép, công ty được cấp các loại giấy phép nhập cảng với các nội dung cụ thể hơn, có quy định các chủng loại hàng hóa. Ngày 25-11-1957, “Công ty khai thác quần đảo Tây Sa được cấp giấy phép số 125-DCE/EC về việc nhập nội 25 loại hàng với 25 số ngoại tệ riêng biệt cho mỗi loại. Tổng số ngoại tệ của giấy phép này là 10.000.000 [10 triệu] đôla Hồng Kông”[4]. Điều này đồng nghĩa với việc công ty được nhập cảng 25 loại hàng hóa tương ứng với 25 quốc gia khác nhau. Đặt trong bối cảnh vào năm 1957, khi chính quyền VNCH phát động chiến dịch phát triển sản phẩm nội hóa, đặc biệt tại các đô thị như Sài Gòn, Đà Nẵng (tức hạn chế nhập khẩu, sử dụng hàng hóa được sản xuất trong nước để tiết kiệm USD)[5] thì rõ ràng đây là một ưu tiên rất lớn dành cho Công ty Tây Sa.


Có thể hình dung hoạt động của Công ty khai thác quần đảo Tây Sa là tổ chức khai thác phân bón ngoài quần đảo Hoàng Sa để xuất khẩu thu ngoại tệ với một mức giá trị được xác định trong giấy phép và nhập khẩu các loại hàng hóa với giá trị tương ứng của xuất khẩu phân bón. Với những ưu tiên có tính cách đặc biệt như vậy, các nhà tư bản, các thương gia rất muốn hợp tác với Công ty khai thác quần đảo Tây Sa trong việc đặt hàng nhập khẩu của Công ty để phân phối tại thị trường trong nước, trong đó có nhiều loại hàng hóa đã đưa vào danh mục cấm nhập khẩu ở các công ty khác. Bên cạnh đó, các công ty nước ngoài cũng muốn hợp tác với Công ty khai thác quần đảo Tây Sa trong việc khai thác phân bón tại Hoàng Sa, điển hình là Công ty Hữu Phát (Hãng Yew Huat) của Singapo có chi nhánh đại diện tại số 190 đường Võ Tánh (Sài Gòn).
Về quá trình hợp tác của Công ty Hữu Phát và Công ty khai thác quần đảo Tây Sa được thể hiện rất rõ trong Tờ trình ngày 26-2-1959 của Công ty Hữu Phát lên Phó Tổng thống VNCH. “Nhờ sự giúp đỡ của Tổng thống và các cơ quan thuộc Bộ Kinh tế, Công ty khai thác quần đảo Tây Sa và hãng Yew Huat của chúng tôi đã ký kết một giao kèo ngày 6-1-1959 về việc khai thác và chuyên chở phân bón (phosphate) tại quần đảo Tây Sa (Paracel). Vào thượng tuần tháng 3-1959 sắp tới, Hãng Yew Huat (Hữu Phát Công ty) của chúng tôi sẽ bắt đầu cho tàu chuyên chở đầu tiên một số máy móc, dụng cụ và vật liệu sang Việt Nam, cập bến sài Gòn, rồi sẽ cho đem ra quần đảo Hoàng Sa để khởi sự làm việc. Ngoài các máy móc, dụng cụ linh tinh phải đem từ Tân-Gia-Ba sang Việt Nam, chúng tôi còn phải chi tiêu một số tiền lớn để làm thêm nhà ở, kho hàng, xưởng làm việc, tuyển dụng tại Việt Nam thêm mộ số nhân công và nhân viên”[6].
Công ty khai thác quần đảo Tây Sa ngoài việc liên kết với hãng Hữu Phát về việc kỹ thuật và chuyên gia, còn có liên kết với một số công ty và rất nhiều thương gia người Việt khác để thực hiện việc xuất nhập cảng nhiều loại hàng hóa kiểu mậu dịch tương tiêu theo những quy định trong giấy phép nhập cảng số 125-DCE/EC ngày 25-11-1957, điển hình nhất là liên kết với hãng Trương tại Sài Gòn. Sự liên kết có tính cách ưu tiên đặc biệt này không phải là không có những ý kiến phản đối của các cơ quan có liên quan khi sau 2 năm gia hạn giấy phép. Ngày 28-1-1959 đã có một cuộc họp về việc xét đề nghị gia hạn năm thứ 3 của hãng Trương và Công ty Tây Sa. Cuộc họp với sự tham gia của các đại diện Bộ Tài chính, Ngân hàng Quốc gia, Giám đốc Nha quan thuế, Giám đốc Nha Ngoại thương. Tại buổi họp này, Bộ Tài chính có ý kiến: “Công ty khai thác quần đảo Tây Sa và hãng Trương đều đã được cấp giấy phép nhập cảng những món hàng cấm hay bị hạn chế như cam, nhan trừ muỗi, piles sèches, mà các nhà nhập cảng khác không thể xin được. Vì vậy, các nhà nhập cảng này ganh tị, cho rằng hai hàng trên đây được hưởng chế độ độc quyền mà họ không hưởng được. Đáng lẻ, thì 2 hãng ấy phải làm thế nào để nhập cảng cho đúng thời hạn ghi trên giấy phép, chứ không có lý nào cứ kéo dài mãi năm này qua năm kia”[7]. Còn Ngân hàng Quốc gia đề nghị bác đơn xin gia hạn của 2 hãng trên vì: “Hai hãng không mua ngoại tệ của Quỹ điều hòa hối đoái, khiến cho quỹ này sẽ hao hụt, không có tiền để trợ cấp xuất cảng gạo. Hai hãng này mua ngoại tệ trên thị trường đen, giá rẻ hơn 15VN đồng nếu mua ở Quỹ điều hòa hối đoái. Làm như vậy, giá cả trên thị trường sẽ bị xáo trộn. Điều chỉnh và gia hạn giấy phép tất nhiên sẽ kéo dài chế độ độc quyền mà hai hãng trên đây được hưởng”[8]. Rõ ràng, vấn đề của Công ty khai thác quần đảo Tây Sa là một vấn đề nóng, có tầm quốc gia mà chính quyền Ngô Đình Diệm phải giải quyết trên cơ sở dung hòa gữa yếu tố kinh tế và chính trị. Cuối cùng, Công ty Tây Sa được tiếp tục được hưởng đặc ân khi Bộ Tài chính cho biết: “Việc gia hạn giấy phép nhập cảng đặc biệt của Công ty khai thác quần đảo Tây Sa đã được thượng cấp chấp thuận trên nguyên tắc”[9].

Về hợp tác của Công ty khai thác quần đảo Tây Sa với các thương gia cũng được triển khai thực hiện mạnh mẽ. Trong liên kết này, các thương gia sẽ được hưởng theo những quy định của mậu dịch tương tiêu nên rất muốn hợp tác vì có lợi nhuận cao. Tuy nhiên, trong quá trình này trên thực tế cũng thông được thông suốt vì một phần các công ty và thương gia không thực hiện nhất quá những cam kết đề ra; đồng thời cũng bị một số cơ quan khác kiểm soát chặc chẽ, hạn chế dần những đặc lợi có tính độc quyền mà các công ty tham gia được hưởng. Nhóm thương gia có đặt hàng của Công ty khai thác quần đảo Tây Sa, mà đại diện là ông Võ Văn Khả, ngụ tại số 115 đường Nguyễn Công Trứ (Sài Gòn) đã đệ trình bà Cố vấn chính trị Trần Lệ Xuân: “Nguyên vào hạ tuần tháng 2-1959, ông Trần Đức Tân, tức chồng bà Nguyễn Thị Thu có đến yêu cầu chúng tôi trong việc hợp tác trong việc nhập cảng hàng hóa theo giấy phép số 125-DCE/EC. Vì chồng bà thu không hiểu rành về kỹ thuật nhập cảng và được sự tín nhiệm của các thương gia cho nên không thể làm gì được, mặc dù ông Tân đã ký hợp đồng với Công ty khai thác quần đảo Tây Sa sau thời gian là 3 tháng... Mãi đến ngày 1-2-1960, chúng tôi chỉ đem được 6.000.000$ Hồng Kông trong tổng số 10.000.000$ Hồng Kông và bắt đầu từ lúc ấy hàng về đến bến thương cảng đều bị đình lại cả. Công ty có báo tin cho chúng tôi là hết số lượng, nên tạm giữ để chờ lệnh trên định đoạt. Tất cả thương gia chúng tôi hy vọng và chờ mãi từ ngày ấy đến nay. Hàng hóa thì hư thối đã nhiều mà tiền kho thì ngày càng tăng lên cao, sự hâm dọa phá sản đến với chúng tôi từng giờ, từng phút. Công ty Tây Sa và các thương gia lại dựa vào ưu đãi đã yều cầu “gia hạn giấy phép nhập cảng đặc biệt sau nhiều thời hạn; trăng số lai xứ và nguyên xứ (trước chỉ có Hồng Kông, Singapo, Nhật Bản và Trung Hoa, sau đó thêm các nước trong khối Âu, Mỹ, Úc)”[10] dẫn đến sự phản ứng của Bộ Tài chính, Quốc gia ngân hàng và Viện hoái đối.
Số hàng hóa bị giữ lại thực khố Trịnh Minh Thế và kho thương cảng Sài Gòn là do không đáp ứng yêu cầu về tỷ lệ, thành phần hàng hóa. Đến tháng 2-1960, là thời gian giấy phép hết hạn thì: “[a] Nhiều loại hàng hóa đã được nhập nội đầy đủ, tới mức ngoại tệ được phép. [b] Nhiều loại khác mới được nhập nội một phần, và do đó số ngoại tệ chưa dùng hết. Ngoài ra, đương sự đã tự động dùng số ngoại tệ còn dư ở đoạn [b] để nhập nội nhiều loại hàng ở đoạn [a] quá số lượng và ngoại tệ ghi trên giấy phép. Sự kiện này đã sảy ra vì những loại hàng chưa mua đủ, không có lợi bao nhiêu nên đương sự thôi không nhập nội quá mức ấn định để bù vào. Vì vậy, nên đương sự hiện còn tại Thực khố Trịnh Minh Thế và các kho thương cảng một số rất lớn hàng hóa thuộc loại [a] quá mức ghi trên giấy phép. Tuy vậy, tổng số vẫn chưa quá tổng số ngoại tệ cho phép”[11]. Đây là những vướng mắc trong việc nhập nội các loại hàng hóa vì Công ty và các thương gia đã cố tình nhập nội hàng hóa theo yêu cầu thị trường cũng như theo tỷ lệ lợi nhuận. Đến cuối năm 1960, số hàng hóa rất lớn bị giam giữ gần 1 năm trong kho[12], dẫn đến tình trạng các loại hàng hóa bị hư hỏng, chịu tiền thuế kho, gây thiệt hại rất nhiều cho các thương gia. Mặc dù trước đó, Công ty và các thương gia đã yêu cầu xin nộp các sắc thuế quan và một khoản tiền phạt để mang số hàng hóa đó ra tiêu thụ. Nhưng các cơ quan có thẩm quyền cho phép nhập nội hàng hóa đều không chấp thuận lời yêu cầu này.
Đứng trước những khó khăn như vậy, Công ty khai thác quần đảo Tây Sa đã giải thể vào giữa năm 1961, việc liên kết với hãng Hữu Phát cùng bị dừng lại. Chương trình kinh tế tại quần đảo Hoàng Sa với tính chất của một công ty đặc thù tạm dừng, tuy nhiên các hoạt động kinh tế tại Hoàng Sa vẫn được tiếp tục thực hiện với nhiều hình thức. Đồng thời, công tác hành chính được củng cố khi Tổng thống Ngô Đình Diệm mới ký một sắc lệnh[13], đặt Hoàng Sa (thuộc tỉnh Thừa Thiên) trở về tỉnh Quảng Nam với quy chế của một xã.
Thông qua hoạt động của Công ty Tây Sa thấy được mối quan hệ quốc tế trong hoạt động kinh tế tại quần đảo Hoàng Sa khi Công ty liên kết chính với hãng Hữu Phát của Singapo, đó là chưa kể 25 quốc gia nhập phân bón được khai thác tại đây. Điều này một cách gián tiếp cho thấy các nước này công nhận chủ quyền hiển nhiên của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa. Bản thân hoạt động của Công ty Tây Sa với những ưu tiên và có vốn luân chuyển trong xuất nhập khẩu lớn, có thể làm tình hình ngoại tệ của chính quyền Ngô Đình Diệm bị ảnh hưởng trầm trọng khi hoạt động không theo giấy phép cho thấy Công ty Tây Sa giống như một tập đoàn kinh tế nhà nước - kinh tế biển, mà người đứng đầu là Viện trưởng Viện Hối đoái Quốc gia. Để giải quyết các vấn đề của Công ty thì đã phải trình xin ý kiến trực tiếp của Phó Tổng thống cũng như cố vấn Ngô Đình Nhu và Trần Lệ Xuân. Như vậy, chính quyền Ngô Đình Diệm đã có một ý thức rất rõ rệt về chủ quyền quốc gia cũng như các biện pháp thực thi chủ quyền bằng các hình thức khác nhau theo hướng xây dựng đầy đủ 5 yếu tố của một đơn vị hành chính là không gian lãnh thổ, dân cư, văn hóa - lịch sử, địa - kinh tế và yếu tố chính quyền gắn với những yêu cầu về quản lý nhà nước/.


[1]Công báo Việt Nam Cộng hòa năm 1956, tr. 1996.
[2]Năm 1956, chính quyền Ngô Đình Diệm đã cấp giấy phép cho kỹ nghệ gia Lê Văn Cang tiến hành khai thác phốt phát ở Hoàng Sa. Theo Đỗ Bang: “Quá trình khai thác và thực thi chủ quyền ở Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của triều Nguyễn”, Huế xưa và nay, số 104, 2011, tr. 14.
[3]Tờ trình về công ty khai thác quần đảo Tây Sa, ngày 1-12-1960. Hồ sơ 2112, Phông Bộ Tài chính, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, thành phố Hồ Chí Minh.
[4]Hồ sơ 2112, Phông Bộ Tài chính, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, thành phố Hồ Chí Minh.
[5]Tờ trình số 3921/CSCA/TNI.N, ngày 27-4-1957 về việc phát triển sản phẩm nội hóa, Hồ sơ 2993, Phông Tòa Đại biểu Trung nguyên Trung phần, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, thành phố Hồ Chí Minh.
[6]Tờ trình ngày 26-2-1959 của Công ty Hữu Phát lên Phó Tổng thống VNCH. Hồ sơ 2112, Phông Bộ Tài chính, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, thành phố Hồ Chí Minh.
[7]Tờ trình ngày 28-1-1959 của Giám đốc Nha Tài ngoại. Hồ sơ 2112, Phông Bộ Tài chính, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, thành phố Hồ Chí Minh.
[8]Tờ trình ngày 28-1-1959 của Giám đốc Nha Tài ngoại, nđd.
[9]Công văn số 336 của Bộ tài chính gửi Tổng Giám đốc Viện hối đoái. Hồ sơ 2112, Phông Bộ Tài chính, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, thành phố Hồ Chí Minh.
[10]Tờ trình về công ty khai thác quần đảo Tây Sa, ngày 1-12-1960, Tài liệu thuộc Hồ sơ 2112, Phông Bộ Tài chính, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, thành phố Hồ Chí Minh.
[11]Tờ trình số 125, ngày 6-12-1960 của Tổng Giám đốc quan thuế gửi Bộ tài chính tại sài Gòn. Hồ sơ 2112, Phông Bộ Tài chính, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, thành phố Hồ Chí Minh.
[12]Theo quy định lúc bấy giờ của chính quyền VNCH, việc hàng hóa bị giam giữ tại thực khố thì trong thời hạn 5 năm vẫn thuộc quyền sở hữu của chủ hàng.
[13]Sắc lệnh số 174-NV, ngày 13-7-1961.

Nguồn: Vanhoanghean

Thứ Ba, 5 tháng 5, 2015

Hoàng Sa du ký 1954

Hoàng Sa du ký 1954 - Kỳ 1:
Đường ra đảo xa 

16/09/2014 06:05 GMT+7
TT - Dưới đây là bài bút ký Ba tháng trên hoang đảo đăng trên tạp chí Phổ Thông, xuất bản tại Hà Nội, số 27 tháng 5-1954.
image033
Trang bìa tạp chí Phổ Thông số 27, tháng 5-1954 và Hai trang trong bút ký Hoàng Sa năm 1954 - Ảnh: Lại Nguyên Ân sao chụp

Bút ký này của tác giả Mạnh Thư, được đăng ở số gần như là cuối cùng của Phổ Thông, kể về chuyến đi biển của mình hồi cuối năm 1953 và ba tháng sống trên quần đảo Hoàng Sa, khi đó do quân đội quốc gia VN cai quản.
Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân sưu tầm và giới thiệu cùng bạn đọc.
Tôi tình nguyện xin đi Hoàng Sa để biết cho tường tận ở đảo bé nhỏ mà người ta đã nói đến từ một câu sấm truyền “Bao giờ sen mọc bể Đông...” đến câu chuyện rất mới quân đội Trung Hoa đỏ muốn tranh chấp trên... mặt báo!
Muốn ra Hoàng Sa phải đến Đà Nẵng (Tourane). Từ Hà Nội dùng đường hàng không VN, đi ôtô xuống Cát Bi rồi lên máy bay vô Nam.
Tôi tạm biệt đô thành một ngày gió bấc. Máy bay bốn động cơ từ Hong Kong ghé lại, gần 13g trưa mới cất cánh. Nữ chiêu đãi viên phát bông nút tai và ân cần đưa chăn len cho từng hành khách. Dừng lại ở phi trường Phú Bài (Huế) chừng 15 phút, máy bay lại vội vã lên đường, trốn một cơn mưa sắp tới.
Xuống Đà Nẵng, tôi vẫn giữ y phục len trong khi người ta còn mặc quần áo trắng cộc. Thời tiết đã khác hẳn. Từ 18-11 là ngày bỏ Hà Nội, đến 23-11 mưa gió tơi bời, một chốc ngớt rồi lại mưa tầm tã, nhiều nhất về đêm. Tôi nóng lòng muốn ra ngay đảo nhưng ngày lại ngày vẫn không có tin gọi.
Cho tới chiều 23 mới thấy tùy phái đến báo sửa soạn mai sớm ra tàu. Tối hôm đó, tuy ngoài trời còn rả rích, tôi cũng cố bắt nghe tin tức khí tượng. Đài Pháp Á báo: “Trung Hải còn gió mạnh, biển nhăn sóng nhưng đã yếu dần” (Trung Hải: biển miền Trung Việt Nam).
Sáng sớm 24-11, lội những vũng nước mưa ngập lúc tối, ra bến thì xuồng máy đã chờ, đón khách ra tàu, thông báo hạm L.G. Chuyến đi này khá đông, một trung đội Việt binh đoàn ra thay trung đội cũ ngoài Hoàng Sa, lại còn binh sĩ ra cù lao Ré (ngang Quảng Ngãi).
Ra khỏi núi Tiên Sa, sóng xanh cuồn cuộn, con tàu say nghiêng ngả. Chả mình tôi, anh em binh sĩ cũng say sóng, nôn thốc tháo. Gió nổi mạnh, sóng tràn qua boong. Hòm xiểng xếp trên boong nếu không chằng kỹ dây chão chắc chắn rớt xuống biển đến hết mỗi khi tàu tròng trành. Tôi không còn mấy sức lần ra thành tàu, đành ngồi tại chỗ mà nôn ọe.
Một thủy binh dìu tôi vào phòng thuốc, dưới trời mưa tầm tã, trên boong tàu lạnh, vì sóng vì gió vì mưa, anh kêu người khán hộ cho tôi thuốc. Phòng sát buồng máy.
Tôi có cảm tưởng vào hỏa ngục, phần thì tiếng động cơ ầm ầm, phần thì hơi lửa sừng sực, đầu nặng mà dưới chân tàu lảo đảo, không khí thật ngạt thở. Tôi nuốt không hai viên thuốc Nautamine, người thủy thủ lại xốc nách đưa tôi ra và an ủi: “Không sao đâu, ngoài trời có gió anh sẽ dễ chịu trong chốc lát”.
Tôi cảm ơn, lại ngồi phệt trên mặt hòm, bám hai tay vào cạnh hai hòm khác cho khỏi mất thăng bằng, mỗi khi tàu xiêu lệch. Cũng may, mỗi lớp sóng tràn qua boong lại cuốn hết rớt rãi của mọi người. Xung quanh tôi không còn ai trông ra hồn, người nào cũng mặt xanh nanh vàng, ngồi rù thảm hại chịu đựng hình phạt.
Sóng cứ nổi, mưa cứ rơi, gió cứ thổi, tàu cứ tròng trành, cho đến lúc tỉnh một giấc ngủ chợp thì trời tạnh, người có tỉnh táo nhưng đứng lên chân vẫn chập chờn. Cứ tính tàu chạy 18 giờ thì đêm nay phải ngủ dưới tàu. Tàu còn ghé cù lao Ré để một ít binh sĩ lên đảo rồi mới ra Hoàng Sa. Chuyến đi này mệt nhất, khổ vì say sóng lại khổ phải ở lâu dưới tàu.
Tôi cứ ngồi trên boong ngắm bóng đen tràn mặt biển, thấm thía với câu thơ: Lòng quê dờn dợn vời con nước/Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Thủy thủ đã treo võng lấy chỗ nằm. Tôi xuống buồng (cabin) tìm một chỗ ngủ. Sóng đã nhẹ, con tàu đu như đánh võng. Tôi phải nằm tận trong cùng ghế cho khỏi ngã. Tiếng sóng vỗ chập chờn xa vắng, ngủ thiếp lúc nào không nhớ, không còn quan niệm gì về thời gian.
Biển lăn tăn sóng, nước xanh như chàm. Tôi lên boong rất sớm, tựa thành tàu. Một thủy thủ đi ngang qua bảo tôi: “Sắp đến rồi đó!”.
Theo phía tay chỏ, tôi thấy bóng mấy cù lao xanh mờ. Rất lâu sau đó Hoàng Sa mới hiện rõ ràng. Đảo lớn dần với bóng cây um tùm. Binh sĩ sửa soạn hành lý trong khi tàu tiến về phía đông rồi buông neo tại đó. Hai xuồng bỏ xuống, mọi người lo chuyển hành lý. Nhìn lên đảo thấy lố nhố bóng người ra đón ngoài đầu cầu.
Tôi theo chuyến canô thứ nhất vào bờ. Tuy vậy, vì nhiều đá ngầm, cách bờ khoảng 4-5 thước phải lội biển đi vào, chỗ đó đá mọc lởm chởm nhưng cũng may có nhiều cát. Nước xanh trong suốt đáy, chân giẫm lên cát mịn của đất liền, nước thì mát lạnh, có lẽ cả cái thú đến đích nữa nên tôi tỉnh táo lạ lùng trong khi người đi sau than: “Say sóng không còn biết ông trời bà đất là gì nữa!”.
Trao lại thư từ và đứng nói chuyện với đồng nghiệp một lúc, tôi cáo thoái về trước nghỉ ngơi và thay áo quần nhơ nhớp. Theo đường chính tôi vào, hai bên đường những cây hoang dại không tên không tuổi mọc tươi tốt như rừng. Những chòm cây đó không cao quá đầu người cũng cản được gió mạnh.
Hoàng Sa, tên chữ Pháp là Pattle. “Hoàng” là vàng và “Sa” là cát. Cát vàng. Tuy vậy Hoàng Sa không có cát như cát ở bãi sông, những mảnh san hô, những mảnh vỏ trai ốc vỡ vụn nhỏ như cát già và cũng êm chân như cát. Và nếu cát già (của đá cuội) vàng thẫm thì cát Hoàng Sa vàng nhạt như ngà.
Hoàng Sa là đảo chính, có người ở, tất cả 40 người, 35 binh sĩ Việt Nam và năm người của Sở Khí tượng; không có bóng dáng đàn bà quanh năm. Đó là một điểm đáng để ý khi nói chuyện Hoàng Sa. Hoàng Sa ở trong quần đảo Hoàng Sa (Archipel de Paracels).
Trên bản đồ Hoàng Sa hơi giống hình chữ nhật, cù lao Robert hình trứng và cù lao Boisée, vẫn theo đồ bản, phảng phất như chiếc lá trầu. Hoàng Sa rộng lớn bằng hồ Hoàn Kiếm, giá đem được về Hà Nội, đặt vào hồ thì... vừa xinh!
Đảo ở một vị trí quan trọng về quân sự, cũng quan trọng với Sở Khí tượng, vì trạm Hoàng Sa ở giữa biển báo chiều gió, sức gió với nhiều chi tiết chuyên môn mà biển miền Trung thì nhiều dông tố. Độc giả hẳn chưa quên trận bão vừa qua dọc duyên hải Trung Việt, nặng nhất ở Huế, các báo hằng ngày đều có tường thuật.
Phổ Thông là tạp chí ra hằng tháng của Hội Ái hữu cựu sinh viên Trường Luật, Hà Nội, xuất bản từ năm 1951-1954, thường đăng những bài nghiên cứu, bài giảng về luật, về kinh tế - xã hội của các giáo sư, giảng viên đại học một số ngành xã hội nhân văn ở Hà Nội đương thời.
Bên cạnh phần khảo cứu, tạp chí cũng có một số lượng bài là tác phẩm văn học của các tác giả người Việt hoặc dịch các tác phẩm văn học nước ngoài
Hiện nay có thể vẫn tìm lại được những bài báo, những ghi chép tương tự như bài bút ký này, trên sách báo thời trước. Song nguồn tài liệu này chắc hẳn không thể nhiều thêm nếu không nói là đang trở nên hiếm dần.
Bởi vậy, tôi nghĩ nên giới thiệu lại với bạn đọc ngày nay. Đây đương nhiên cũng là bằng chứng về chủ quyền, về sự hoạt động, sự quản lý của nhà nước, của người Việt đối với quần đảo Hoàng Sa, ngay trong thời gian đang diễn ra chiến tranh Đông Dương (1946-1954).
LẠI NGUYÊN ÂN

Hoàng Sa du ký 1954 - Kỳ 2:
Đây, Hoàng Sa, Vương quốc An Nam...

17/09/2014 12:35 GMT+7 TT - Từ đầu cầu - cũng có người gọi là cầu tàu - là chỗ xuồng áp bến, chạy dài một con đường chính lối vào trung tâm đảo. Đường thứ hai song hàng.
image034
Trạm thu phát sóng radio và trạm khí tượng do người Pháp xây dựng trên đảo Hoàng Sa (ảnh chụp năm 1940) - Ảnh tư liệu

image035
Bia khẳng định chủ quyền Việt Nam do một đơn vị lính bảo an người Việt dựng trên đảo Hoàng Sa vào tháng 6-1938. Trên bia có khắc những dòng chữ bằng tiếng Pháp: Cộng hòa Pháp - Vương quốc An Nam - Quần đảo Hoàng Sa 1816 - Đảo Hoàng Sa 1938 - Ảnh tư liệu của UBND huyện Hoàng Sa

Con đường trên hai đoạn đường, kẻ chéo thước thợ, ra biển về phía bắc. Đường dưới thông bốn đường ra biển về phía nam. Các đầu đường, sát biển đều có xây pháo đài phòng ngự cuộc đổ bộ.
Hai tòa nhà quy mô rộng rãi, một tòa to nhất là đồn, trên sân thượng có chòi canh, trên chòi canh có xây hải đăng, kính dày, ngày trước tối đen, có thắp đèn bão (lampe de tempête) soi đường cho tàu bể.
Nhà thứ hai, kiểu villa, nhỏ hơn, còn rộng tới bảy buồng và hai gian con (buồng tắm) là trạm khí tượng, có bàn giấy trạm trưởng, phòng làm việc chung, buồng máy, phòng ngủ, phòng ăn.
Mỗi tòa nhà còn những lớp nhà ngang, phụ cận ba bốn căn; bên đồn làm điếm gác, phòng nguyện, buồng ngủ, nhà bếp; bên khí tượng dùng làm kho vật liệu, bếp nước.
Một lớp nhà ngang như thế bị hoàn toàn phá hủy vì bom Mỹ. (Trong thời gian Thế chiến thứ hai, quân Nhật đóng quân trên nhiều đảo ở Hoàng Sa, Trường Sa - BT)
Phía đông bắc và tây nam đảo có xây hai cái mốc, bắt biển đồng, ở trên ghi:
République Franc5aise
Empire d’ Annam
Archipel des Paracels
1816 ile Pattle 1938

Sau trạm khí tượng, về phía nam (hai tòa nhà đều xây hướng bắc) có khu rừng thông nhỏ vài ba chục gốc. Giữa rừng dựng một cái mốc ximăng, chữ kẻ sơn màu xanh nhạt:
1946 ile Pattle reprise de possession 21 Mai par 21 fusiliers marins du RBFM (ngày 21-5-1946 đảo Hoàng Sa được giành lại bởi 21 tay súng lính thủy thuộc đơn vị...) dưới kê danh sách cả hai mặt: E.V. Vaury, Thoraval, Hasoero, Moreau, Allano, Martin... Kẻ sơn lâu ngày chữ mờ, lại khuất cỏ ở phía dưới mốc, rất khó đọc.
Ngoài rừng thông trồng một chỗ, còn lẻ tẻ bên đường đôi ba gốc. Đường ra biển, cửa sau đồn, còn thấy ba gốc dừa, hai gốc thối hoàn toàn, bị chặt ngang, còn một cây chắc không hợp thủy thổ lá úa héo hắt.
Ngoài ra toàn là những bụi hoang dại mọc xanh tốt, dày đặc thành rừng. Có đến hai ba giống, một giống lá xanh bóng, một giống lá có lông như tráng bạc, làm cảnh thì đẹp nhưng vô tích sự, họa chăng chặt cành về làm củi.
Giống trời sinh, phát đi ít nhưng mọc lan ra nhiều, xanh mượt, xanh ngút ngàn. Ở trong nhà lá xanh che cả chân mây mặt bể, lá to bản và dày. Ai cũng ước ao giá là rừng cà phê, tươi tốt thế này thì quả nhiều phải biết!
Nhưng cây trồng thì còn thứ nào chịu được gió ở đảo, và mùa nực chịu sao được sức nóng của cát? Đất không phải đất thịt, lại không phải đất màu mỡ, toàn cát và vụn san hô.
Đất lâu ngày vón với nhau rắn như đá. Cây bị động gốc lại gió suốt đêm ngày mà không phải gió nhỏ, thường cũng 12-16 nœud (nœud là hải lý, 1.852m) một giờ, lên làm sao được? Chỉ có bốn gốc đu đủ, hoa sai mà ít đậu quả.
Trên đường rau sam mọc hoang, lá đỏ cạch. Cỏ chỉ mọc từng chỗ. Nhất về mạn đầu cầu và phía tây nam, dây muống bể có sợi rút dài trên mười thước, bò ngổn ngang. Rừng dày đặc cành lá, khó mà len được lối đi, ở trong thêm dây tơ hồng chằng chịt quấn như mạng nhện.
Dọc theo đường lớn ra biển, phía tây nam, giữa rừng cây sầm uất có một chỗ trống sạch sẽ phẳng phiu, trên đó nổi một thềm nhà cao ráo, thềm miễu Bà, dựng một gian, nhìn ra biển cả. Trừ lúc đèn nhang mở, còn thì khép cửa chính.
Hai bên, cửa sổ mắt cáo lấy ánh sáng vào trong. Miễu thờ Phật, có tượng đá, tay cầm lư hương, tạc cao bằng đầu người. Cửa miễu, dưới ba chữ “Kim sa am” có đôi câu đối, cũng đắp mảnh sứ như bức hoành trên:
Độ nhân vô lượng sắc không môn,
Lễ Phật thậm thâm công đức hải

Bên cạnh miễu là nghĩa trang lặng lẽ với chín phần mộ, năm nấm có mộ chí ghi tên người bất hạnh, quê quán và ngày tạ thế. Còn bốn ngôi đầu mộ trồng miếng ximăng không ghi gì cả. Chắc có một huyệt đã cải táng, chỗ lũng còn cắm một thập tự giá bằng gỗ.
Phía tây nam suốt ngày vắng vẻ, u uất, biển mạn ấy sóng cả quanh năm, trắng xóa, cuồn cuộn. Sau miễu đổ nhào một cái chòi canh bằng sắt, những thanh sắt dày, gỉ hết cả, công trình phá hoại của thời gian.
Tìm kiếm mãi mới thấy hai gốc bí đao, một gốc bí ngô, ngọn bò lẫn cỏ, anh em trước giồng.
Đấy, quang cảnh Hoàng Sa.
Ở đảo ai cũng lo lương thực. Lương thực chỉ trông vào tiếp tế, cả gạo lẫn thực phẩm, các vật dụng từ cái cuốc làm cỏ đến cây kim vá áo đều từ đất liền đưa ra. Mỗi tháng tàu ra một lần. Ngày tàu ra náo nhiệt, song lại trở về chuỗi ngày buồn.
***
Ngày 25-11 - Trưa 26, tôi tập việc cho quen và sáng 27 làm một mình. Nhân viên của sở có bốn người, hai người làm vô tuyến truyền thanh, hai người làm chuyên viên khí tượng.
Một phạm nhân, anh Nao, thổi cơm và quét dọn vặt. Vừa làm hết việc tôi đã ra ngay bãi, định đi một vòng. Mới ra, chưa kịp nhận phương hướng, gặp đường là về, mới thấy chưa hết một vòng đảo.
Đảo không nhỏ lắm như đã tưởng tượng. Ở Hà Nội vòng hồ Gươm không thấy mỏi vì cảnh đẹp bên đường, vả lại lối đi phẳng phiu; đi vòng đảo là đi trên cát, cũng có chỗ bãi xuống thoai thoải, cát êm, có chỗ nhiều cát, dốc hẳn xuống một thước bề cao, thứ cát to hạt đi lún cả guốc, chân nặng sa lầy nên chóng mệt.
Biển cố nhiên đẹp, đẹp cả ngày nắng lẫn ngày mưa, đẹp trong cái mênh mông hùng vĩ, khi phẳng lặng với vài đợt sóng uốn éo dịu dàng như cô gái đùa với em thơ, khi giận dữ cau có bạo tàn như thiếu phụ nổi cơn ghen, sùi bọt mép thúc sóng cả vào bờ, lùi ra lấy đà để rồi gào thét chúi đầu vào tình địch.
Ra biển, tâm hồn tự nhiên êm ả vì người bé nhỏ quá trước thiên nhiên, trước cao cả, cảm thấy sâu xa sự đua chen danh vọng tiền tài là hèn mọn.
Ở bãi biển giả dối không còn nữa, quần áo sang trọng đắt tiền là thừa, ai cũng dễ dàng như ai, trần một mảnh vải, dáng điệu tự nhiên, mất hết những cử động học đòi, những lối ngồi kiểu, những bước uốn éo, ve vẩy đôi tay thừa.
Nằm, ngồi, đi, đứng chỉ cần thoải mái, không câu nệ bẩn áo quần, muốn lăn vào thiên nhiên sống tự nhiên như buổi sơ khai. Biển nổi sóng thì tâm hồn cũng sôi nổi những ý tưởng cao siêu, những quan niệm tuyệt mỹ của vẻ đẹp lớn lao, không giả tạo, không tủn mủn.
Xa khơi biển xanh như chàm, xanh rất đậm, ngả sang màu thiên thanh, màu bích ngọc, màu quan lục chỗ nông. Nước vỗ bờ thì xanh trong suốt đáy. Đây đó sóng bạc đầu tung bọt trắng ngần...
Màu sắc tuyệt diệu như thế, thanh âm là một hòa tấu nhịp nhàng. Biển cồn ngày mưa, gió gào như rú, sóng đổ ầm ầm, mưa rơi lốp đốp; biển lặng sóng êm, gió đứng, mây ngừng, chập chờn đôi cánh chim không vỗ cánh.
Biển sôi trong đêm tối mịt mùng, vài ngôi sao lấp lánh trên trời và đáy biển, cho người ta chợt nghĩ đến bề rộng và bề sâu.
MẠNH THƯ

Hoàng Sa du ký 1954 - Kỳ cuối:
Những ngày thường giữa khơi xa
18/09/2014 06:05 GMT+7 TT - Sáng 30-11, Sang chơi bên đồn hỏi chuyện anh em đội viên: "Giũa gì đấy? Ra biển chơi đi!".

image031
Đào giếng lấy nước ngọt trên đảo Hoàng Sa (ảnh chụp năm 1938) - Ảnh tư liệu
- Cảm ơn, để bận khác! Bận giũa lưỡi câu!
À hay! Ông này ở tiểu ban bắt cá. Có chuyện viết rồi đây!
- Ông câu chơi đấy chứ?
- Không, cách tiếp tế khó khăn, anh em tôi tự túc. Trong đất liền đời sống đã đắt đỏ, giá hàng đột ngột cao vọt lên với đồng bạc hạ giá, nếu thức gì cũng mua thì lương binh sĩ chả còn bao để giúp gia đình. Ở hoang đảo này giải quyết bằng cách nào nếu không chịu câu cá mà ăn!
- Đất này trồng tỉa được không?
- Cát san hô còn có gì màu mỡ? Ta ra vụ này là mùa rét còn nóng thế này. Ra ngoài giêng hai nóng nữa, tháng ba, tháng tư đã thấy thời tiết mùa hè, cát nóng như rang, cây nào lên được?
- Nuôi gia súc được không hở ông?
- Bò, dê thì tốt lắm. Thầy xem cây cối thế kia, thả chúng tự do thì chóng sinh sản, nhưng ở tháng ba đã về, chưa gây xong cơ sở thì ai muốn trông nom.
Cũng có cỏ đấy, ngày xưa nuôi bò phải giữ cỏ cho bò ăn. Thầy có thấy giếng nước (abreuvoir) xây trên cỏ đấy chứ? Nhưng nuôi gia súc phải có vốn, anh em tôi ai đưa ra được?
- Các ông chia công tác thế nào?
- Chia từng tiểu ban: tiểu ban bắt cá được miễn công tác vặt, tiểu ban bếp nước luân chuyển 10 ngày một lần, tiểu ban này ba người. Bắt cá thì chừng 6-7 người, không thay đổi, phần đông có nghề chài lưới, hoặc không thì cũng là người biết lội (bơi).
Ngoài ra còn phải trông nom vệ sinh, nhặt cỏ, rẫy đường, quét lối đi, lấy củi, không kể công tác chính của quân nhân: gác trên chòi canh hoặc đi tuần đêm quanh đảo.
- Gác trên chòi làm gì?
- Để đánh kẻng báo hiệu khi thấy bóng tàu, thuyền. Thuyền, tàu thấy từ xa, gõ hai tiếng kẻng, khi thấy tiến vào đảo thì gõ một hồi cấp báo.
Tàu bay đánh ba tiếng. Tàu bay nhìn thấy rõ hay khi khi mây u ám, chỉ nghe tiếng động cơ cũng đánh ba tiếng.
- Từ trên chòi có thấy rõ quốc tịch tàu thuyền qua lại không?
- Ít khi nhận rõ vì xa quá. Với lại họ có kéo quốc kỳ mới phân biệt được. Máy bay thì xem cờ vẽ đằng lái, cao ba nghìn thước thì cũng chịu, có khi không nhận rõ kiểu máy bay là Dakota hay Box-car, chứ đừng nói đọc số máy. Qua Hoàng Sa là máy bay đi Hương Cảng, Philippines.
- Tàu gì qua lại miền này?
- Tàu buôn và tàu tuần tiễu hải phận. Cũng có tàu đánh cá của một công ty ở Hong Kong, hình như của người Anh, thủy thủ phần đông là Nhật. Cũng có hôm thấy thuyền mành giương đến ba buồm.
image036
Đây là giấy chứng sinh của bà Mai Kim Quy, sinh ngày 7-12-1939 tại đảo Hoàng Sa. Cha bà Kim Quy là ông Mai Xuân Tập, nhân viên khí tượng đảo Hoàng Sa - Ảnh tư liệu
Trưa 30-11, trời êm biển lặng. Mặt trời chói lòa, biển như một cái bể dầu loang loáng, chân trời xa mờ mờ sương. Vắng lặng mênh mông, vài đợt sóng xô lên bãi bị cát khô hút hết.
Xa tắp, vài bóng cô quạnh đứng dưới nước, mực nước đến ngang hông, lặng lẽ buông cần. Chẳng ai nói với ai nửa lời, chăm chú nhìn phao và chăm chú nhìn đàn cá lượn lờ.
Thỉnh thoảng một người giật cần, một con cá cong mình vùng vẫy đầu dây cước. Ông ta gỡ cá buộc vào xâu. Kiên nhẫn như thế hàng 2-3 giờ cho đến khi nào xâu cá đã dài mới bì bõm lội lên, hút - để tự thưởng - một điếu và nghêu ngao trên đường về.
Ở một góc biển khác, trên những tảng đá mấp mô, sóng vỗ tung tóe, những chàng trai khỏa thân đứng rình đàn cá. Trước mặt họ chỉ có nước với trời.
Nước dồn dập đến, bọt trắng rào rào trên mặt biển xanh ngắt màu bích ngọc, gió trùng dương thổi lộng mớ tóc đen mun.
Sức vóc vạm vỡ của họ, dáng điệu tự nhiên của họ nổi lên như cắt trên một khung cảnh hùng vĩ, trông đẹp và khỏe làm sao!
Tản bộ trên cầu thấy luôn những con còng (cua) màu xanh, mình dẹt, to bằng cua đồng ở trung châu. Còng đi rất nhanh, thấy bóng người là chạy vụt xuống nấp dưới khe đá.
Yên lặng một lúc các chú lại bò lên đi nghênh ngang, mặc những con sóng ào đến. Trên những tảng đá rêu xanh còng càng nhiều. “Ốc mượn hồn” bò chậm chạp trên cát.
Những hôm đầu tháng trăng non, những hôm giữa tháng trăng tròn, nước triều rút. Biển cạn, nhấp nhô trên mặt nước nông những tảng đá san hô.
Cả phía đông nam đập nổi một vùng, lởm chởm những cành san hô gãy, những vỏ ốc vỡ. Xa ra hàng 3 cây số làn sóng xanh lượn lờ.
Biển nhiều san hô sắc nên ra biển phải đi giày, thứ giày đế cao su có cổ như kiểu pantaugas, để cả giày mà lội nước bì bõm.
Từ tinh sương, cả đảo - trừ những người bận - gọi nhau dậy ăn sáng để còn ra biển. Có những người đi sớm từ 5g, lội nước ngang bụng, ra xa đến 4 cây số, đến nơi nước xuống ngang ống chân để có nhiều thì giờ.
Đi như thế người nào cũng mang theo dụng cụ: một thanh sắt để bẩy đá, một con dao để cắt gân ốc, một túi rết (muselière) để nhặt nhạnh.
Ra muộn, 6g -7g, lúc nước cạn sát bờ, cạn đến cổ chân, nghe vang vang từ xa dội lại tiếng “cách cách” đập vỏ ốc mà tuyệt nhiên không thấy bóng người.
Dưới những tảng đá san hô xâm xấp nước thường luẩn quẩn mấy con cá, mấy con cua, đôi khi mấy con mực nhỏ và nhiều thứ ốc.
Ra biển ai không đi biển? Hoạt động cho đỡ buồn, cho quên thời gian, cho đỡ ốm, cho biết. Trời mênh mang, biển mênh mang, không khí trong lành, cảnh vật tưng bừng với ánh bình minh rực rỡ.
Biển thêm xanh, rong thêm biếc, mây biến sắc lúc mặt trời trườn khỏi mặt biển mờ sương lam. Gió phần phật tà áo, thổi tung mớ tóc, gợn mặt biển những con sóng nhấp nhô.
Những người khách lạ
Dưới đây là đoạn trích trong Hoàng Sa qua những nhân chứng, Tập san Sử Địa số 29, phát hành tại Sài Gòn tháng 1-1975:
Người Việt vốn quý khách. Khách tới, đi canô hay xuồng nhỏ vào đảo là được tiếp đón niềm nở. Nhất là khi khách gặp cơn hoạn nạn cần phải cứu giúp.
Khách lạ tới là những lúc vui vẻ. Nhưng đôi khi anh em cũng thấy những triệu chứng khác thường.
Một lần, trước năm 1970, một bọn người không rõ quốc tịch lên bờ xin nghỉ ngơi. Họ nói tàu đánh cá của họ bị bão.
Khách lạ thì ta có từ chối bao giờ đâu. Rồi các anh lính Việt Nam bỗng chú ý đến bọn này vì họ đem theo một tấm giấy lớn, mở ra thì biết là tấm bản đồ của quần đảo Hoàng Sa.
Thế rồi chẳng có gì xảy ra cho tới giữa tháng 1-1974.
Sau vụ xung đột ở Hoàng Sa lúc đó (tức trận hải chiến Hoàng Sa), anh em mới vỡ lẽ các tàu đánh cá là tàu do thám ngụy trang. Vì lúc dự trận, trên đài chỉ huy của tàu cá Trung Quốc kéo ra hai cây đại liên, còn hai bên mạn tàu có những ô vuông chĩa ra những họng súng...
TRẦN THẾ ĐỨC
MNH THƯ (Li Nguyên Ân sưu tm và gii thiu)

Nguồn: Tuoitre

Tường thuật của Tổ khí tượng (1956-1974)

TP - Tôi gặp họ một chiều hè, bên biển Đà Nẵng, một trong sáu bãi biển đẹp nhất thế giới và nói về biển, về một mảnh đất của Việt Nam. Đó là Hoàng Sa - nơi họ gắn bó một phần đời khi còn rất trẻ.
Ông Nguyễn Giáo đang đo nhiệt độ, độ ẩm tại lều máy trạm Khí tượng Hoàng Sa
Ông Nguyễn Văn Cúc, ông Ngô Tấn Phát, Tạ Hồng Tấn, Võ Như Dân, những mái tóc như sóng bạc đầu. Họ học nhiều nơi khác nhau, công việc cũng khác nhau.
Ông Ngô Tấn Phát học khí tượng ở Tân Sơn Hòa, Sài Gòn. Ông Tạ Hồng Tấn học ở Cát Bi, Hải Phòng. Ông Võ Như Dân là công nhân chế hơi được đào tạo tại Nha Khí tượng Đà Nẵng.
Ông Nguyễn Văn Cúc là công binh kiến tạo, ra Hoàng Sa với nhiệm vụ lấy mẫu đất để nghiên cứu xây dựng sân bay. Nhiệm vụ và thời gian khác nhau nhưng Hoàng Sa in đậm trong tim họ.
Họ nhớ như in, đảo chính hình hột xoài, dài khoảng 3 km, rộng 2 km. Bốn góc đảo có bốn lô cốt, tường rất dày. Phía Bắc bãi biển cạn, có nhiều rạn san hô rất đẹp, khi triều xuống lộ ra một bãi dài, đủ màu xanh nhạt, trắng ngà, hồng.
Phía nam đảo có miếu Bà, rộng hơn 4m, chiều sâu chừng 3m có chuông mõ, sách kinh. Gần miếu có tảng đá chồm ra biển như một hàm ếch lớn. Chiều chiều cá về chầu rất nhiều, mọi người ngồi trên bờ xem chúng bơi lội.

Ngoài đảo chính, Hoàng Sa có nhiều đảo nhỏ, nằm phía đông. Dựa vào hình dáng hoặc tính chất mà có tên đảo Cây, đảo Hòn Đá, đảo Nam... còn gọi Tree Island, Pattle Island (Hoàng Sa), Phú Lâm là Ile Boiseé hoặc Woody Island (nhiều cây)...
Cá rất nhiều, đeo kính lặn xuống sâu một chút là được lượn lờ cùng chúng. Dưới nền các ngôi nhà là hầm chứa nước mưa, đủ dùng quanh năm. Tàu thuyền qua lại thường ghé xin.
Trạm khí tượng Hoàng Sa (lúc đó gọi Ty Khí tượng Hoàng Sa) ở 111,37 độ kinh độ đông, 16,33 độ vĩ độ bắc. Mã số phát báo số liệu quốc tế của trạm là 48860. Mỗi ngày đo 8 obs (kỳ quan trắc) gồm gió, mưa, mây, nắng, nhiệt độ nước biển, độ ẩm, khí áp... thả bóng thám không hai lần: 6 giờ sáng và 12 giờ trưa.
Hướng và tốc độ gió được tính trên bàn phân toán (loại bàn tròn có mặt mi-ca vẽ tọa độ phương, tâm cố định mặt bàn) rồi thảo mã điện gửi cùng obs Synop 7 giờ và 13 giờ (0 và 7 giờ Greenwych). Số liệu phát báo bằng moọc (morse) vào Nha Khí tượng Sài Gòn để dự báo thời tiết. Về sau phát báo bằng đàm thoại vô tuyến.
Nguồn cung cấp điện là máy phát chạy xăng. Với các yếu tố đo đạc, mã trạm, chế độ quan trắc và phát báo số liệu thì trạm khí tượng Hoàng Sa là trạm hạng A, phục vụ dự báo thời tiết của Tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO).
Mỗi kỳ ở đảo ba tháng. Khi ra, họ mang gạo, đậu xanh, nếp, khoai tây đóng thành thùng. Khoai đổ xuống đất để được lâu, khi ăn chọn củ héo ăn trước. Trẻ, khỏe, chưa có gia đình nên ông Phát đi luôn hai kỳ, tháng 3 đến tháng 9 năm 1959.
Ông nói: “Mang ra hơn 40 con vịt, mỗi con hơn ký. Vài ngày làm một con. Còn băm cá, bắt ốc cho ăn, con nào con nấy ú nu. Sáng nào cũng được năm, bảy trứng. Đu đủ quả to lắm, do đất bùn và phân chim tích tụ lâu năm. Rau, bí đỏ xanh mướt, như trang trại vậy.
Cá nhiều lắm, tui không có kinh nghiệm nhưng chỉ vác câu đi một chút là được cả xâu. Đi hai kỳ nhưng tui chỉ gặp bão xa một lần. Chim vào tránh bão, đậu lên cả dây phơi, màn, chiếu. Tui vuốt ve, chúng cứ đứng yên, khô cánh mới bay.
Thuyền ngư dân vào trú bão rất nhiều. Ngày ấy chỉ có thuyền buồm chứ chưa chạy máy như bây giờ, nên có lúc hàng trăm chiếc đậu, nhấp nhô quanh đảo, đẹp lạ thường. Nhưng tôi mê nhất là nước biển Hoàng Sa. Đứng ở cầu tàu nhìn ra, nước chia từng lớp, gần bờ màu xanh dương, ra mí sóng xanh đậm rồi đậm hơn, theo tầng đáy, bốn năm lớp, đẹp lắm”.
Ông Tạ Hồng Tấn cũng là quan trắc viên, ra Hoàng Sa lần đầu năm 1963. Những năm sau ông cũng đi. Lần cuối là năm 1974 rồi bị lính Trung Quốc bắt. Ông nói Hoàng Sa đẹp lắm. Bão đến, mưa gió như muốn nhấn chìm nhưng rồi mây tan mưa tạnh đảo lại càng đẹp.
Ông Võ Như Dân làm nhiệm vụ chế hơi bơm bóng Pi-lô. Với một lượng xút, phe-rô và nước tương ứng cho vào bình từ hôm trước, hôm sau bơm thả. Xong việc, ông trồng rau, câu cá bắt ốc chế biến cho anh em.
Ông nói ốc tai tượng to như cái bát luộc trộn rất ngon nhưng ngon nhất là ốc sừng (còn gọi ốc gân). Gọi ốc sừng vì nó có cái vòi vươn ra để di chuyển, trông như cái sừng. Sau khi luộc rút sừng chấm nước mắm gừng rất ngon.
Ốc hoa to, vân màu rất đẹp, khi về ai cũng mang theo để trưng tủ chè, làm gạt tàn thuốc, chặn giấy. Từ năm 1956 cho đến năm 1969, năm nào ông cũng đi Hoàng Sa, có năm hai lần. Những lúc không làm ca các ông chơi cờ tướng, lấy đinh khắc tên và tháng ngày ra Hoàng Sa lên đá hay theo thuyền cao su của lính địa phương quân đi tuần tra các đảo nhỏ.
Các đảo này rất nhiều chim. Chúng rất dạn, người đến sát bên mới bay. Chúng đẻ trứng ngay trên đất, nhiều như sỏi. Phân chim rất nhiều. Thỉnh thoảng những người ở đồn điền của bà Trần Lệ Xuân, vợ Ngô Đình Nhu ra lấy phân chim và san hô khô về xay bón cây.
Ông Nguyễn Nhự ở Hòa Tiến, huyện Hòa Vang ra Hoàng Sa ba lần (năm 1969, 1970, 1972) nay đã 83 tuổi. Tôi đến đúng lúc thôn Bắc An của ông đang tổ chức kỷ niệm ngày thương binh liệt sỹ. Trưởng thôn, chủ tịch mặt trận và hội phụ nữ đang dâng bông trái lên mặt tủ đặt giữa nhà văn hóa thôn.
Mâm cỗ đạm bạc, lọ bông trang rừng, nải chuối cau vàng ươm, đĩa thịt vịt và mì Quảng. Trong cái ly cát nhỏ, mấy điếu thuốc đang tỏa khói. Ông Nhự chủ lễ dâng hương khấn vái. Chúng tôi đứng lặng tưởng niệm hương linh những người đã vong thân vì nước.
Ông Nguyễn Giáo trước phòng làm việc của trạm Khí tượng Hoàng Sa
Trong làn khói hương trầm, ông Nhự nhỏ nhẹ: “Tui rành từng khối đá, từng góc đảo. Trên đảo có một cây mù u. Trước nhà trạm có cây phượng, mùa hè trổ bông đẹp lắm. Có hai cây mít, quả rất ngon. Có một loại cây giống đu đủ tía nhưng rất chắc, cành nhỏ bằng cổ tay con nít đeo bao gạo 50 ký vẫn không gãy. Tro loại cây này rất ít và mịn, mấy tháng mới được một mớ nhỏ, đóng cứng như gạch! Cá, ốc, cua, hải sâm nhiều lắm...”.
Đang miên man, bỗng ông Nhự chỉ trưởng thôn nói “ông già Hai Hoanh cũng đi Hoàng Sa đó”. Anh Hoanh cho biết: Có mấy bức ảnh cha anh chụp ở Hoàng Sa.
Rồi anh về lấy đưa cho tôi ba bức ảnh nói: “Tôi giữ cẩn thận lắm. Cô là người đầu tiên thấy đó. Không chỉ tôi mà ông Nhự cũng bất ngờ. Đó là bức ảnh ông Nguyễn Giáo (còn có tên Huýnh) đang đứng trước lều quan trắc khí tượng, tay cầm quyển sổ, tay cây bút.
Nắng chan hòa. Đội mũ lưỡi trai vẫn rất rõ nét mặt. Cánh cửa lều khí tượng mở rộng, thấy rõ cả máy đo. Ông Nhự giọng run run: “Đúng rồi, máy đo nhiệt độ, độ ẩm đây, phòng làm việc đây. Cây phượng đây, hoa đẹp lắm”.
Ông chỉ gốc cây bên bậc tam cấp: “Chỗ này có cái ghế, tụi tôi làm bằng bìa ghi sắt quân đội để ngồi chơi, đánh cờ”. Ông chỉ gốc cây nhỏ bên hiên nhà bảo: “Cạnh cây dương liễu này là bồn nước...”.
Ông nhìn bức ảnh ông Giáo đứng trước nhà làm việc, trên cửa có dòng chữ TY KHÍ TƯỢNG và ảnh hai người lính đứng trên bãi cát, phía sau biển mênh mông.
Ông Phát, ông Dân cũng rất xúc động khi nhìn những tấm ảnh. Trạm Khí tượng Hoàng Sa đây, bể nước đây... Lội biển về là tụi tui đứng đây dội nước ào ào. Nhiều bữa mấy anh lính cũng sang đây tắm...
Ông Cúc trầm ngâm: “Ra đảo nhiều lần, biển trời Hoàng Sa tinh khiết như chưng lọc. Tháng 1/1974 ông đi với một kỹ sư Mỹ, lấy mẫu đất về nghiên cứu, chuẩn bị xây dựng sân bay. Ông lấy ba nơi, đầu, giữa và cuối đảo. Lên tàu trở về thì bị tàu Trung Quốc chặn đánh.
Là lính công binh kiến tạo, chỉ đi xây dựng cầu đường, sân bay nên trưởng tàu ra lệnh ông và viên kỹ sư người Mỹ phải trở lại đảo. 12 giờ đêm các ông xuống bo bo với chiếc máy truyền tin C25 và chỉ được tàu dọi đèn pha hướng về đảo một lần với lệnh “Đi thẳng”.
Bơi tay vào đến nơi gần 5 giờ sáng nhưng phải rất lâu hai người mới lên được đài quan sát. Đứng trên đài quan sát ông thấy tàu Trần Khánh Dư và tàu Lý Thường Kiệt đánh trả quyết liệt nhưng lực lượng mỏng quá.
Tàu Trần Khánh Dư bị trúng đạn, nghiêng một bên rồi chìm. Đến 10 giờ sáng thì đảo bị chiếm hoàn toàn. Ông nhảy ra khỏi đài quan sát, nấp vào bụi cây rồi bị bắt.
Tháng 3/1974 được trao trả qua ngả Hồng Kông, ông nhói tim khi qua Hoàng Sa. Quần đảo dưới cánh máy bay tươi đẹp vậy mà dang dở một kế hoạch xây dựng.
Chúng tôi lặng đi. Hoàng Sa, nơi những con dân nước Việt đã cống hiến sức lực và khắc ghi họ tên vẫn sâu thẳm trong mỗi trái tim. Hoàng Sa là của Việt Nam. Đó là điều không có gì thay đổi được. 

Một thời trai trẻ ở Hoàng Sa
TT - Chiều 11-12, UBND huyện đảo Hoàng Sa, TP Đà Nẵng tổ chức một cuộc gặp gỡ cảm động với những người từng sống và làm việc trên đảo Hoàng Sa. Đó là những cựu nhân viên của Trạm quan trắc khí tượng Hoàng Sa hiện đang sống ở Đà Nẵng.
Phóng to
Hải đăng trên đảo Hoàng Sa (ảnh chụp trước Thế chiến thứ 2 được lưu tại phòng lưu niệm kỷ vật Hoàng Sa).
TT - Chiều 11-12, UBND huyện đảo Hoàng Sa, TP Đà Nẵng tổ chức một cuộc gặp gỡ cảm động với những người từng sống và làm việc trên đảo Hoàng Sa. Đó là những cựu nhân viên của Trạm quan trắc khí tượng Hoàng Sa hiện đang sống ở Đà Nẵng.
Trong căn phòng bốn bề treo đầy những kỷ vật, tranh, ảnh của Hoàng Sa, ba cựu nhân viên khí tượng say sưa nói về những ngày "đo mưa đếm gió” trên đảo Hoàng Sa thân yêu.
Ba ông già ấy là Tạ Hồng Tấn, Võ Như Dân và Ngô Tấn Phát, tuổi đã ngoài 80. Trong đó, ông Tạ Hồng Tấn là một trong những người cuối cùng rời khỏi đảo vào một ngày không thể quên của năm 1974.
Ký ức
Mái tóc bạc phơ, ông Tấn chậm rãi nói: "Gặp lại anh em xưa, tôi thấy nhớ hòn đảo ấy quá chừng". Ông Tấn chỉ lên tấm bản đồ có chấm đỏ mang tên Hoàng Sa treo trên tường, bồi hồi nhớ lại.
Năm 20 tuổi, cậu thanh niên Sài Gòn Tạ Hồng Tấn được Nha Khí tượng Sài Gòn cử đi học nghiệp vụ một năm tại Cát Bi (Hải Phòng). Tốt nghiệp khóa học, ông Tấn được cử về phục vụ tại Trung tâm Khí tượng Đà Nẵng. Đầu năm 1963, Nha Khí tượng Sài Gòn quyết định cử ông ra Hoàng Sa làm việc ở trạm quan trắc khí tượng.
Ông Tấn cười: "Đó là lẽ đương nhiên, không riêng gì tôi, tất cả những ai làm ở Nha Khí tượng đều ít nhất vài lần ra đảo". "Đúng 5g chiều, tại cảng Đà Nẵng, tôi cùng ba chuyên viên khí tượng, một kỹ sư vô tuyến điện và một phục vụ hậu cần lên tàu. Tàu chạy suốt đêm, đến 6g sáng hôm sau thì cập đảo Hoàng Sa".
Phóng to
Đào giếng lấy nước ngọt trên đảo Hoàng Sa (ảnh chụp năm 1938, hiện được lưu tại phòng lưu niệm kỷ vật Hoàng Sa)
Hoàng Sa ngày ấy là một hòn đảo vắng vẻ, chỉ dăm bụi cây cao chừng 3m. Rất ít chim và nước thì xanh trong. Trạm quan trắc khí tượng xây dựng kiên cố trên một điểm cao, ở đó có cả một tháp quan sát, đây cũng là nơi có ngọn hải đăng luôn được thắp sáng hằng đêm. Đồn lính thì nằm dưới chân đảo.
Mỗi ngày, trạm đều đặn quan trắc ba giờ một lần. Những thông số như sức gió, lượng mưa, nhiệt độ biển, áp suất, ẩm độ... lần lượt được chuyển về Sài Gòn bằng tín hiệu morse.
"Những lúc rảnh rỗi, tôi cùng các đồng nghiệp đi dạo khắp đảo. Lúc câu cá, khi thì đi tìm san hô, vỏ ốc, rong biển đem về làm quà kỷ niệm. Không một ngóc ngách nào của Hoàng Sa mà tôi chưa đặt chân đến" - ông Tấn kể.
Vào giữa năm 1964, ông cùng các cộng sự của mình đối mặt với một cơn bão biển dữ dội: "Bão gió ngút trời, như muốn nhấn chìm cả hòn đảo. Trước khi bão đổ bộ, chúng tôi đã hoàn tất bản tin báo bão từ Hoàng Sa gửi về Sài Gòn. Đến khi bão tan, dắt tay nhau lên trên mỏm núi đá cao nhất của đảo mà nhìn đất trời, thấy hạnh phúc vô cùng. Biển ở Hoàng Sa đẹp lắm" - ông Tấn nói.
Cả ông Tấn, ông Dân và ông Phát đều kể rằng có một điều mà bất kỳ người nào đặt chân lên đảo Hoàng Sa đều làm và làm một cách đầy tự hào, đó là khắc tên mình lên những hòn đá cuội lớn nằm quanh đảo.
"Ngay trưa của ngày đầu tiên đặt chân lên đảo, tôi đã khắc tên mình lên vách đá”. Dòng chữ đó ông Tấn vẫn còn nhớ như in: "Tạ Hồng Tấn - chuyên viên Nha Khí tượng Sài Gòn đã đến đây - 1963".
Nhưng đấy chỉ là hàng chữ trong vô số bút tích chi chít trên những vách đá Hoàng Sa. "Đó là dấu tích kỷ niệm của những ngày trai tráng lãng mạn để lại giữa biển đảo Hoàng Sa, cái tên đã trở nên thiết tha với những ông lão này" - ông Tấn tâm sự.
Một ngày không quên
Phóng to
Các cựu chuyên viên khí tượng của Nha Khí tượng Sài Gòn (từ trái sang): Võ Như Dân, Ngô Tấn Phát và Tạ Hồng Tấn - Ảnh: Anh Kiệt
Cũng như ông Tấn, những kỷ niệm một thời ở Hoàng Sa vẫn còn nguyên với ông Ngô Tấn Phát: "Cứ ba tháng, chúng tôi lại ra Hoàng Sa làm nhiệm vụ một lần. Khi đi thì gồng gánh đủ cả hàng tạ những gạo, nếp, đậu xanh, gà, vịt sống đem ra nuôi ăn dần. Tôi chưa quên được cảm giác lần đầu ra đảo. Lúc đi thì đông đủ anh em, vợ con đưa tiễn. Nhưng khi tàu rời bến xa dần đất liền mới thấy mình đơn lẻ. Chúng tôi sống trên Hoàng Sa cùng sóng gió và trạm quan trắc. Thỉnh thoảng mới thấy vài chiếc tàu hàng đi ngang qua đảo".
Ông Võ Như Dân, người từng có mặt ở Hoàng Sa từ những năm 1956, quả quyết: đặc sản của Hoàng Sa chính là ốc gân - loại ốc to bằng chiếc đĩa, ăn giòn và thơm. "Nghề của tôi là chế hơi và bơm bóng thám không phục vụ các quan trắc viên đo gió trên đảo" - ông Dân kể.
Với ông Tạ Hồng Tấn thì ngày 19-1-1974 là một ngày không thể quên. "Qua ống kính quan trắc, chúng tôi thấy từ xa lô nhô tàu chiến lớn nhỏ vây quanh Hoàng Sa. Tất cả thả neo dừng lại phía ngoài khơi. Họ chờ đến khi hoàng hôn vừa buông xuống thì nổ súng. Đạn bay vèo vèo vào đảo. Chừng 30 phút sau, những chiếc tàu hải quân Trung Quốc tiến vào đảo".
Ông Tấn nhớ lại: ông cùng năm đồng nghiệp bị bắt đưa lên tàu, chở đến đảo Hải Nam. Đến tháng 3-1974, ông và nhiều người khác được trao trả tại Hong Kong, rồi lên máy bay về lại Sài Gòn. Sau 1975, ông Tấn tiếp tục công việc ở Đài Khí tượng thủy văn miền Trung đóng tại Đà Nẵng, một thời gian ngắn thì về hưu, sống yên bình cùng con cháu.
Ông Tấn nói bây giờ mỗi ngày xem bản tin dự báo thời tiết về Hoàng Sa trên báo Tuổi Trẻ, ông lại bâng khuâng như thể đang ở trạm quan trắc Hoàng Sa để "đo gió đếm mưa". 


Những người Việt ở Hoàng Sa năm 1937-1938

QĐND - Thứ Hai, 13/08/2012, 16:39 (GMT+7)
QĐND-LTS: Đại tá Nguyễn Văn Bính, giảng viên Học viện khoa học Quân sự vừa chuyển cho chúng tôi một ghi chép đề năm 1998 của cha mình là nhà thơ Nguyễn Minh Hiệu (1924-1998), nguyên hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, nguyên Phó trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Thanh Hóa về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc.
“Giáá như gặp được ông bạn kiều bào nào ở Pa-ri về nước lần này, tôi thử gợi ý xem, khi trở sang bên ấy, nhờ bà con ta ở Pháp hỏi xem có biết gia đình, con cháu ông Nguyễn Kỳ, kỹ sư mỏ ở Đông Dương hồi những năm 30, hiện còn những ai? Chắc là những tư liệu riêng của ông ta trong chuyến đi ra Paracels tức đảo Hoàng Sa năm 1938 ấy vẫn còn nhiều đấy.
Mà chẳng riêng gì ông Kỳ và 4 người chúng tôi trong nhóm cán bộ kỹ thuật thuộc sở mỏ Đông Dương (Service des Mines de l’Indochine francaise) cử theo ông ta mới có mặt ở Hoàng Sa từ tháng 4 đến tháng 8-1938. Trước đó, đã có 60 người lính Việt, phần lớn quê ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, ra đóng ở đảo này, dưới quyền của một viên chỉ huy người Pháp lai - nhìn rất “Việt Nam” chỉ có cái mũi là hơi giống người Âu, mà lúc đó thường gọi tắt là ông Môn. Đơn vị quân sự này ra đảo từ năm 1937. Họ xây dựng những công sự ngầm, những kho tàng ngầm chứa lương thực, thực phẩm và cả nước ngọt, đủ dự trữ cho hai, ba năm. Nói chính xác hơn là xây loại kho tàng công sự nửa nổi nửa chìm hoặc một phần nổi hai phần chìm. Tất cả đều khéo nguỵ trang. Chúng tôi ăn chung bếp với lính, ông Nguyễn Kỳ ăn cơm với lão Môn tây lai. Nhưng nhóm kỹ thuật không được phép tò mò quan sát đến các công trình, công sự của họ. Điều đó không chỉ là nguyên tắc mà còn là một kỷ luật nghiêm ngặt lắm. Họ xây cả trụ đèn biển. Và trong số các kho ngầm còn có chứa riêng những vỏ ốc quý trên đảo. Khi chúng tôi trở về đất liền, công việc của nhóm nhà binh này vẫn còn tiếp tục”.
Bác Nguyễn Hựu, 75 tuổi (thời điểm năm 1988-SK&NC), nguyên Giám đốc mỏ Cổ Định, nay đã nghỉ hưu ở Thị xã Thanh Hóa đã kể với tôi như vậy.
Quê gốc bác Hựu cũng chính ở Nam Ngạn, phía Nam cầu Hàm Rồng. Ngày ấy ở Hoàng Sa về được ba năm gì đó, bác lại được cử về khảo sát các mỏ vùng Vĩnh Lộc, Hà Trung (Thanh Hóa). Ở đây bác được đồng chí Nguyễn Văn Huệ (nay đã 80 tuổi), tuyên truyền giác ngộ cách mạng. Sau Tổng khởi nghĩa năm 1945 thành công, Nguyễn Hựu đã từng có thời gian công tác ở Tiểu ban kinh tài của Liên khu 4; họ tổ chức khai thác các mỏ phốt-pho-rít ở Vinh và Thanh Hóa. Sau này đánh Pháp, ông được giao xây dựng và quản lý nhà máy phốt phát Nam Phát Thanh Hoá, rồi mới lên nhận công tác ở Crô-mít Cổ Định.

Bác Hựu kể tiếp:
“Chuyến ra đảo năm 1938 ấy đối với chúng tôi hết sức bất ngờ về tất cả các mặt, từ kỹ thuật nghiệp vụ cũng như nếp sống sinh hoạt và tâm lý, ứng xử, giao tiếp. Một ngày vào hạ tuần tháng ba dương lịch, kỹ sư Nguyễn Kỳ đột ngột triệu tập chúng tôi tới phòng ông ta nói là có lệnh trên cho ra đảo khảo sát. Bốn người được chỉ định có anh Trịnh Đình Hướng quê ở Bắc Ninh, chuyên hóa nghiệm; anh Lê Đức Bảo quê ở Vĩnh Lộc, Thanh Hóa, chuyên về đo đạc; anh Nguyễn Thế Trừ ở vùng cửa sông Ghép và tôi là khảo sát.
Hai giờ chiều hôm sau, chúng tôi xuôi Hải Phòng. Năm giờ sáng hôm sau nữa, cả đoàn đáp chuyến tàu chở hàng của hãng Xô-va (Sauvage), thường gọi là hãng tàu “Tây điếc”, đi Đà Nẵng. Tàu chạy bằng guồng máy. Lênh đênh trên biển mất 5 ngày mới tới nơi. Kỹ sư Nguyễn Kỳ ở khách sạn Tây, 4 chúng tôi được bố trí ở một khách sạn của người Hoa.
Ở Đà Nẵng gần một tuần thì một hôm có hai người đến gặp, đưa cho mỗi chúng tôi một tờ khai theo mẫu thống nhất, cam đoan ra đảo phải làm theo sự hướng dẫn của bộ phận quản lý ngoài đảo, còn phần chuyên môn thì do ông kỹ sư Nguyễn Kỳ phụ trách. Gần sát ngày lên đường, họ mới cho biết nơi đảo sắp đến đã có một cơ đội lính của Nam triều (chính phủ Bảo Đại) ra trước từ gần một năm rồi, các điều kiện sinh hoạt ngoài đó đến lúc này đã được chuẩn bị, không có gì thay đổi lắm so với đất liền.
Hôm sau nữa, chúng tôi được phát giấy tờ tùy thân xem như ngư dân ra đảo đánh cá làm nước mắm. “Nào chúng tôi có biết chút gì về nghề cá mú đâu!”. Họ trả lời: “Đây chỉ là hình thức bên ngoài phải làm như vậy, còn khảo sát thăm dò mỏ vẫn cứ là phần việc riêng của các anh chứ!”. Miễn là phải nhớ, bất cứ có ai hỏi đến, tất cả đều nói là được tuyển mộ ra làm nghề cá cho Nam triều.
Tiếp đó họ phát cho chúng tôi mỗi anh hai bộ quần áo bà ba nâu, hai mảnh vải làm khố, một áo tơi lá và một chiếc nón đan theo kiểu ngư dân miền biển. Chúng tôi mua thêm mỗi người một cái bếp cồn, mua thuốc lá và mấy thứ lặt vặt khác.
9 giờ ngày 2-4-1938, đoàn chúng tôi chính thức khởi hành trên chiếc tàu nhà binh Clốt Sáp (Claude Saf) của Pháp. Hôm đó gió to, sóng lớn, chiều 3-4-1938 mới tới nơi cả nhóm đều say sóng, lên đảo nằm li bì mất hai ngày mới tỉnh táo trở lại.
[​IMG]
Trụ sở hành chính của Việt Nam trên đảo Hoàng Sa trước năm 1945. Căn nhà của 4 chúng tôi ở căng bằng vải bạt. Trước mặt có cột cờ. Lá cờ vàng của Nam triều bay phần phật. Cách đấy dăm chục mét là dãy nhà bạt của bộ phận ra trước đánh cá. Kỹ sư Nguyễn Kỳ ở trên nhà bạt với ông Tây lai chỉ huy (được đóng giả như một ông chủ thầu đánh cá). Chúng tôi không tò mò nhưng rồi cũng biết đó là viên quan Một, những người kia là một cơ lính khố xanh. Thời kỳ này, quân đội Nhật đã chiếm Mãn-Châu (1931), gây sự kiện Lư Cầu Kiều (7-1937), mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược ra cả Trung Quốc và hải quân Nhật đã hoạt động mạnh cả ở vùng biển phía này. Chính quyền Pháp phải tổ chức phòng ngự ở Hoàng Sa, nhưng buổi đầu hãy tạm ngụy trang như đơn vị làm kinh tế của chính phủ Nam triều ở Huế
Cụm Hoàng Sa lúc bấy giờ có khoảng bốn năm chục hòn đảo, nhưng chỉ có đảo Paracel là rộng hơn cả, diện tích quy lại cũng được khoảng một ki-lô-mét vuông. Mặt đảo là bãi cát bồi bằng đá san hô phong hóa, có nhiều ụ con nổi lên cao hơn mặt nước biển ba, bốn mét. Các đảo khác cũng có cát bồi và đá san hô nham nhở, nhưng diện tích đều hẹp. Có đảo chỉ thực sự thấy được khi nước triều rút xuống. Trên hòn đảo Paracel có loại cỏ lá dài, mép lá rất sắc. Có loại cây thân như cây núc nác nhưng lá lại như kiểu tàu chuối rừng. Ngoài mép nước gần bờ có những cụm sú vẹt. Sau này, trong những ngày chúng tôi đã xong công việc, chỉ còn chờ tàu ra đón vào đất liền, mấy anh nấu bếp của cơ lính khố xanh mới thuật kể cho nghe thêm nhiều truyền thuyết và những mẩu chuyện về Hoàng Sa do các cụ vùng quê Quảng Nam, Quãng Ngãi của những ông bạn này từng kể lại. Thì ra từ đời Minh Mạng hay trước và sau đó nữa, các vua nhà Nguyễn đã sai chở nhiều giống cây từ đất liền ra trồng trên đảo làm điểm tiêu cho tàu bè từ xa đã biết có đảo san hô mà lựa tránh khỏi mắc đá ngầm. Nhưng thuyền ra nhỏ, chở được có hạn. Nhiều cây không hợp thủy thổ, lại gió lộng suốt ngày suốt tháng, cây khó trụ nổi.
Ở Hoàng Sa có nhiều loại chim hải âu, màu lông trắng có, đen có, hoặc màu đen nâu như chim két cũng có. Đêm đến hải âu về đảo trú ngụ. Sáng ra, trên bãi có hàng ngàn quả trứng. Chúng tôi đốt bếp cồn luộc lên nếm thử mới biết trứng hải âu vị chát, rất khó ăn. Mùa đồi mồi sinh sản, hàng đêm những con đồi mồi cái cũng tìm lên mép đảo đẻ trứng ấp con. Đặc biệt là ở đây rất nhiều vỏ ốc quý, có hàng trăm loại, nhiều màu sắc xanh, đỏ, tím, vàng. Có nhiều loại chỉ bằng móng tay. Có nhiều loại to bằng quả bưởi, ánh mặt trời chiếu vào nhấp nhánh như kim cương. Có những chiếc vỏ ốc gần như trong suốt, soi lên đèn thấy ánh lên những vân màu khác nhau rất đẹp. Anh em cho biết còn có những loại vỏ trai, vỏ ốc lớn hơn nhiều, nhưng các lớp người đến trước đã thu nhặt mất.
San hô ở đây cũng nhiều màu: Ngà trắng, vàng, xanh xanh... Chung quanh các kẽ đá san hô là nơi ẩn náu của họ hàng cua bể và cá hồng. Khi có giờ rỗi, chỉ cần đem ít gạo rang hay một dúm cơm xuống là hàng đàn cá hồng kéo đến tranh nhau ăn. Chúng tôi lấy kim găm uốn thành lưỡi câu, luyện cơm dẻo làm mồi cũng có bận câu được hàng yến. Cho nên thức ăn cua cá chẳng thiếu mà chỉ thèm rau xanh. Và ở đây cũng còn một nét bất ngờ nữa là cả ngày lẫn đêm lộng gió, vùng đảo không hề có muỗi mà vẫn có đàn dơi khá đông, loại màu nâu, loại màu đen. Anh em quê Nam, Ngãi cho biết loại này cũng từ đất liền ra. Chúng ăn moi biển nên rất béo, có con to bằng con chim sáo. Lúc no mồi cần nghỉ ngơi, chúng náu mình trong các kẽ đá san hô.
[​IMG]
Dụ số 10 của Bảo Đại ký ngày 29-3-1938 khẳng định chủ quyền lâu đời của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Kỹ sư Nguyễn Kỳ chỉ huy nhóm chúng tôi khảo sát, thăm dò trữ lượng và chất lượng phân chim ở Hoàng Sa. Nhưng được phép khảo sát ở hòn đảo nào lại do bộ phận quản lý đảo quy định chứ không thể tự do như những chuyến đi thăm dò mở trên đất liền. Anh Bảo đem máy đo đạc, xác định tọa độ kinh vĩ xong là chúng tôi bắt tay vào việc đào hào thám sát. Hào đào rộng mỗi bề một mét, sâu xuống hai đến ba mét, tùy nơi, chỗ cát ào xuống thì đem gỗ chèn. Gặp đá san hô rắn thì dùng búa đục. Trữ lượng phân chim ở đây có tới vài vạn tấn, chất lượng vào loại tốt, trong đó có chất diêm tiêu làm thuốc súng, có nitrat kali đem bón ruộng càng tốt. Phân tích tụ đã từ rất lâu đời, có chỗ dày tới ba mét. Hào đào xuống vài mét đã thấy một thứ nước khoáng rỉ ra, màu hơi vàng vàng. Bộ phận hóa nghiệm cũng phải làm phân tích cả thứ nước khoáng này.

Ông Kỳ là người Việt, nhưng học ở Pháp, vào làng Tây, là một kỹ sư giỏi thực sự, do ở Pháp lâu nên có phong cách giản dị dân chủ, không quan dạng như mấy anh công chức người Việt khác. Vả lại chúng tôi cũng quen phong cách làm việc đến nơi đến chốn và thực sự tuân thủ các quy trình kỹ thuật chuyên môn. Sau khi phân tích, ghi chép đầy đủ vào bulletin d’analyse (phiếu trích yếu phân chất), kỹ sư Nguyễn Kỳ xác nhận, ký tên; cả mẫu quặng cùng hồ sơ hằng ngày đó được phong lại, gắn xi, cặp dấu, chờ gửi về Hà Nội. Mỗi tuần một chuyến tàu của nhà binh Pháp chở các nhu yếu phẩm, kể cả nước ngọt, thư từ ra đảo và nhận chuyển các thứ từ đảo về đất liền. Điều chúng tôi còn chút phân vân lại ở một điểm khác: Những kết quả khảo sát này chỉ hoàn toàn phục vụ cho sở mỏ Đông Dương hay ông Kỳ còn kết hợp cung cấp cho một công ty tư nhân nào đó đang có ý định bỏ vốn vào việc khai thác nguồn phân chim Hoàng Sa này chăng?
Theo thể lệ của chính quyền Đông Dương hồi bấy giờ một công ty tư nhân nào muốn khai thác khoáng sản trước hết phải được phủ Toàn quyền cấp cho giấy phép đi tìm mỏ (autorisation de rechercheminiere ), có giá trị trong ba năm.
Khi đã chọn được vùng đất cụ thể nào đó mới làm bản đăng ký xác định vị trí (toucher périmètre), trước khi chính thức khai thác còn phải có giấy phép, làm thủ tục xin lập khu nhượng địa (concession Périmètre) và bắt đầu nạp thuế theo diện tích rộng hẹp – tính bằng héc-ta của khu nhượng địa đó. Giữa các công ty tư bản, cùng người Pháp, cũng thường xảy ra những vụ tranh chấp với nhau khá rắc rối. Anh đăng ký sau, muốn cướp miếng béo bở của anh cắm trước, dùng mưu khoanh vùng đăng ký của mình rộng hơn, bao trùm lấy cả khoảnh đất của anh kia để hớt tay trên. Có anh chỉ xin cắm vùng đất không có quặng mỏ gì, nhưng bịt mất đường vận xuất của anh có mỏ, buộc anh này phải thuê đất của anh ta để làm đường ra vào và xây dựng các công trình cần thiết khác. Nhóm tư bản nào đó muốn bỏ vốn ra khai thác mỏ phân chim ở Paracel này mà có được một người nhận làm tay trong cho ở sở mỏ, khỏi lo gì sự bất trắc vì tranh chấp.
[​IMG]
Báo La Nature số 2916 ngày 1-11-1933. Cả ông Nguyễn Kỳ và chúng tôi đều chung một tâm lý làm công việc khảo sát này xong càng sớm càng tốt để trở về đất liền. Khi chúng tôi ra đảo là đầu mùa hè. Ngày nóng, đêm thì gió. Quần áo không mặc nổi. Anh em bên quản lý đảo cũng như chúng tôi đều cởi trần, đóng khố, đầu húi trọc để cát khỏi mắc lại ở chân tóc. Tắm rửa đều phải dùng nước biển. Buổi tối, bảy tám giờ vẫn còn vầng sáng ở bầu trời phía tây. Buổi sáng, mới hơn bốn giờ đã hừng đỏ ở chân trời phía Đông. Đặc biệt, khi mặt trời nhô lên, nhìn to hơn hẳn khi ta ngắm ở đất liền.
Trong khi khảo sát ở đảo chính, chúng tôi thấy có một bia đá, chiều cao 1,20m, rộng độ sáu mươi phân tây, trên nóc bia có chạm hai con rồng và một mặt nguyệt. Các cạnh đều có hoa văn. Lòng bia có khắc mấy chữ Hán “HOÀNG SA HẢI AN NAM QUỐC”, phía dưới ghi “Gia Long tam niên, ngũ nguyệt, sơ nhị nhật”. Gần đó có một miếu thờ xây dựng bằng loại gạch vồ, nóc cuốn vòm, lòng miếu rộng chừng tám tấc vuông, phía trong có một bát hương bằng đá, có vại nhỏ đựng nước mưa (để làm nước cúng). Bát hương, vại nước, những nén hương cháy chưa hết, và cả những mảnh gốm vỡ quanh đó đều là loại ta thường gặp ở vùng Quảng Nam - Đà Nẵng.
Mấy anh bên cơ lính cho biết, miếu thờ này do dân chài ở Quảng Nam xây cách đây đã khoảng một trăm năm. Mỗi lần ra khơi làm nghề, không bao giờ người ta quên việc mang theo lễ vật ra miếu cầu xin cho được bình an, đánh bắt được nhiều cá, hoặc khi sóng to thì họ neo thuyền vào đảo trú ẩn. Một vài anh còn có cụ kỵ tổ tiên xưa từng được sung vào đội Hoàng Sa, hằng năm từ tháng “trọng xuân” đến trước mùa lũ bão, quan chức phong kiến cử ra đảo để thu nhặt những của cải và các vật quý do các tàu buôn bị đắm các nơi trôi giạt vào đảo, đem về nộp cho Nhà nước những thứ đã quy định; các thứ khác là thuộc về mình. Tâm lý người được cử đi vừa tin có mệnh vua giao, vừa thương các cô hồn đắm thuyền dạt sóng, nên ra tới nơi thế nào cũng có lễ cúng các cô hồn, lại gieo ít hạt giống để mong thành cây cho người đi biển những năm sau biết mà tránh nạn hoặc dễ nhận ra nơi cần tìm đến neo thuyền tránh bão gió.
[​IMG]
Hải đăng Việt Nam trên đảo Hoàng Sa thời Pháp thuộc. Ảnh tư liệu.
Trong thời gian có đơn vị quản lý và chúng tôi ra làm việc ở hòn Paracel, những người dân chài không được phép lên hòn đảo chính này, nhưng họ vẫn ghé lên một số đảo bé hơn ở trong cụm, cách chúng tôi không xa. Những ngày nắng, đánh bắt được nhiều cá, họ đem cá lên phơi. Ngày biển động họ vào đảo chờ biển lặng trở lại để đánh bắt tiếp hoặc đợi thời tiết thuận lợi, dong buồm trở về đất liền.
Khoảng cuối tháng 6-1938, công việc khảo sát của chúng tôi sắp xong, thì đột nhiên các tàu hải quân Nhật kéo đến phong tỏa ở phía ngoài. Các tàu tiếp tế theo định kỳ không ra được. Gay go nhất lúc này là nước ngọt. Trên đảo có một số giếng do dân chài qua lại đã moi lên từ hàng trăm năm trước lấy nước dùng. Bộ phận quản lý đảo nghiêm cấm mọi người, không cho một ai được phép lấy nước giếng để tắm rửa, chỉ để dự trữ dùng cho việc ăn uống. Nguồn nước ngọt chở từ đất liền ra không còn nữa thì nhu cầu về nước cho việc ăn và uống gần bảy chục con người chỉ còn trông vào mấy cái giếng bé nhỏ đó, cho nên phải trân trọng tiết kiệm đến từng giọt.
Nhóm chúng tôi còn thêm một nỗi khổ nữa là việc làm không còn. Ngồi rỗi thấy bứt rứt lạ. Nghịch cá, đuổi bắt cua mãi cũng chán. Hết kể chuyện chinh Đông, chinh Tây, Tây du, lại đến chuyện tiếu lâm, hoặc nghe các truyền thuyết về biển, về đảo, các đặc tính của cá, tôm, sinh vật biển. Có lúc ôn lại những kỷ niệm các lần đi khảo sát mỏ ở những vùng rừng núi: Hễ mệt, nóng thì ào xuống suối tắm, nghe đủ thứ tiếng chim rừng; sau đợt ở rừng về là những bát phở đủ gia vị, rau thơm, những hương vị khó quên ở những nhà hàng đã quen.
Cho đến một hôm, máy bay Nhật từ tàu chiến của họ bay vào đảo quan sát nhiều vòng. Hôm sau, họ cho ba thuyền máy dắt một số thuyền cao su đưa khoảng vài chục lính Nhật kéo nhau lên đảo gặp những người ở đây. Không rõ những sĩ quan và hải quân Phù tang này có nhận ra được những công sự ngầm hay không (trong đó, chúng tôi biết ít ra cũng có các loại súng như mút-xcơ-tông (mousqueton), một số khẩu trung liên “đầu bạc”... tất cả đều được giấu kỹ). Lính Nhật nhờ chúng tôi xúm tay kéo hộ những chiếc thuyền cao su lên bờ, biếu chúng tôi thuốc hút. Họ đi khắp đảo trong khoảng hơn một giờ, dừng lại xem những tấm lưới, đàn cá đang phơi, những dãy thùng mắm. Mấy sĩ quan và lính chừng như có biết chữ Hán, đến ngắm và đọc tấm bia “Hoàng Sa hải An Nam Quốc”. Lão Môn (tây lai) trong vai chủ thầu nghề cá mắm của Nam triều, đem rượu, bia ra mời. Nhưng bọn sĩ quan Nhật không hề dùng đến một thứ gì. Sau đó bọn họ kéo nhau ra tàu, còn tặng chúng tôi mấy gói Poupon – loại thuốc lá của quân đội Nhật.
Ý chừng thấy những người có mặt trên vùng đảo Paracels này không là sự uy hiếp hoặc có thể gây khó khăn bất ngờ gì cho hải quân Nhật ở phía này, nên mấy hôm sau các tàu chiến Nhật kéo đi nơi khác-chắc đương có yêu cầu lớn hơn. Đợt phong tỏa chấm dứt.
Chiếc tàu thủy mang tên “Khải Định” của hải quân Pháp chở đồ tiếp tế ra cho đơn vị ở đảo và đón chúng tôi về Hải Phòng. Chỉ hơn bốn tháng trời mà cả bốn chúng tôi đều đổi khác. Anh nào da dẻ cũng đen nhẻm, nhưng khỏe ra, đặc biệt là không anh nào ghẻ lở. Người ta bảo gió biển không phải có lợi cho tất cả mọi người như nhau cả đâu. Phải tùy theo lứa tuổi và sức khỏe. Gió ban sớm lợi cho lứa tuổi nào. Gió buổi chiều lợi cho lứa tuổi nào. Hồi ấy, chúng tôi còn đương tuổi thanh niên nên có lẽ cả gió sớm hay gió chiều đều có lợi. Trong chúng tôi có anh Hướng vốn mắc bệnh suyễn, nhờ chuyến khảo sát 4 tháng ở Hoàng Sa đó mà bệnh khỏi hẳn. Kể cũng đáng ngạc nhiên.
Hồi làm giám đốc ở mỏ Cổ Định, những con ốc hoa ngũ sắc mang từ Hoàng Sa về chuyến ấy, tôi đã cho bạn bè rất nhiều, cũng vẫn còn một số. Tôi thường đặt ở bàn làm việc. Trưởng đoàn Đảng Hồng Ân và các thành viên trong đoàn chuyên gia Trung Quốc đến làm việc ở Crô-mít Cổ Định trong mấy năm liền cũng thấy những chiếc vỏ ốc đặc sản này.
Những văn kiện, thư tịch về Hoàng Sa, Trường Sa từng còn liên quan đến nước Pháp, đến chính quyền thời Pháp cai trị Đông Dương, đến bà con khác trong vùng. Đó là chưa nói đến nhiều nhà hàng hải, nhiều ngư dân không chỉ Việt Nam mà còn các nước trong vùng giáp cận cũng không ít người từng đến Hoàng Sa trú chân khi gặp gió lớn và thấy được bia chủ quyền của ta như bọn chúng tôi đã từng gặp. Hồi đó, chúng tôi cứ trao đổi bàn cãi mãi: Tại sao ngày Gia Long cho dựng bia lại là “ngũ nguyệt”, “sơ nhị nhật” nhỉ? Thì ra ngày mồng Hai tháng 5 âm lịch ấy từng được coi là ngày Quốc khánh thời Gia Long chính thức lên ngôi Hoàng đế năm Nhâm Tuất, lịch Tây là năm 1802.
Minh Hiệu


Nguồn: Qdnd
 

Thứ Bảy, 28 tháng 3, 2015

Báo Tuổi trẻ (4 nhân chứng): Hoàng Sa - nơi tôi đã sống

15/01/2012 07:40 GMT+7
TT - Cách đây đúng 38 năm, tháng 1-1974, đúng vào dịp tết, Hoàng Sa của Việt Nam đã bị Trung Quốc xâm chiếm. Từ đó đến nay, chưa bao giờ quần đảo Hoàng Sa bị lãng quên trong lòng người dân Việt.
Kỳ 1: Quãng đời đặc biệt 

Ông Nguyễn Văn Thành - nhân viên thông tin truyền thông trên đảo Hoàng Sa - Ảnh tư liệu
Mãi đến nay, đã gần 40 năm qua mà trong ký ức tôi vẫn còn nhớ như in những kỷ niệm vui buồn tại đảo Hoàng Sa. Bởi đó là quãng đời đặc biệt mà tôi đã từng sống và làm việc. Tôi đã từng sống trên đảo hai đợt, mỗi đợt hơn ba tháng.
Ký ức chuyến ra đảo đầu tiên làm tôi nhớ mãi. Phải thú thật là lúc nhận được lệnh đi đảo Hoàng Sa, tôi cũng lo sợ. Mặc dù trước đó có rất nhiều người đã đi, nhưng lần đầu tiên phải xa vợ con trong thời gian dài và không biết cuộc sống trên đảo thế nào.
Tôi còn nhớ thành phần ra đảo lúc đi khá đông, khoảng hơn 20 người kể cả bốn nhân viên khí tượng. Chúng tôi đến từ những vùng quê khác nhau của VN.
Chúng tôi tập trung tại Hội An, đi mua sắm vật dụng cá nhân cho mình, mua lương thực thực phẩm phục vụ cho đoàn cũng như một số vật nuôi, con giống để ra đảo tăng gia sản xuất như heo, gà, vịt, hạt rau muống, hạt đậu xanh...
Sau khi chuẩn bị xong, xe đưa chúng tôi ra Đà Nẵng để lên tàu và xuất phát ra đảo từ đó. Khi được lệnh lên tàu và khởi hành, anh em trên tàu mỗi người mỗi tâm trạng. Nhưng rồi ai cũng có cảm giác hân hoan vì lần đầu được lênh đênh trên mặt biển, để khám phá vùng đất thuộc lãnh hải của Tổ quốc mà mình chưa biết.
Theo kinh nghiệm, nếu thời tiết tốt thì thời gian ra đến đảo mất khoảng 21 tiếng. Tàu của chúng tôi khởi hành khoảng 14 giờ hoặc 15 giờ hôm trước thì hôm sau khoảng 10 giờ hoặc 11 giờ đến. Dù thủy triều cao hay thấp thì trong tàu luôn trang bị xuồng cao su để đưa người và vật dụng lên bờ.
Tại đảo có một chiếc cầu, tạm gọi là cầu cảng. Từ đầu cầu vào nhà ở khoảng 400-500m. Nếu nhớ không lầm thì ở phía bên phải của cầu có một chiếc tàu sắt đã gỉ sét. Nghe những người đi trước kể lại, đó là tàu của bà Ngô Đình Nhu ra đảo chở phân chim bị hỏng và bỏ lại.
Khi bước chân lên đảo tôi thấy ở cầu cảng có đường ray (hẹp hơn đường ray tàu hỏa) và năm chiếc xe rùa, không biết ai đã xây dựng và để lại nơi này. Tất cả anh em dùng những chiếc xe rùa này để di chuyển vật dụng, thức ăn, nước uống vào nhà. Hai bên đường vào nhà toàn là đá vôi, cây phốt phát, cây nhàu và một số cây lạ khác.
Nhà chúng tôi ở trên đảo được xây dựng rất kiên cố, bề dài khoảng 30-40m, bề ngang khoảng 20m. Nhà được ngăn thành bốn phòng: phía bên phải có một phòng để dùng làm nhà kho, một phòng cho binh sĩ ở, phía bên trái một phòng dành cho đảo trưởng và lính truyền tin, còn căn phòng rộng nhất dùng để sinh hoạt. Nhà rất kiên cố nhưng tất cả cửa lớn nhỏ đều đã hư hỏng vì thời gian nên mỗi khi có mưa gió rất cực khổ. Phía dưới nền nhà được đúc suốt dùng làm hầm chứa nước để dự trữ.
Phía trên trần nhà cũng đúc bêtông và được đặt hai khẩu súng đại liên 50 li, một khẩu đã hỏng và một khẩu còn dùng được. Tất cả vật dụng cũng như súng ống và đạn dược thì đảo trưởng cho lau chùi sạch sẽ vô dầu mỡ và cất vào kho. Ngoại trừ có ít lựu đạn đảo trưởng cất giữ để đánh bắt cá. Đây thật ra cũng là chủ ý của đảo trưởng, sợ anh em khi có xích mích, nóng giận mà sử dụng thì rất nguy hiểm.
Trước mặt nhà ở khoảng 150m có một nhà thờ Thiên Chúa giáo, trong có treo một cây thánh giá và tượng chúa Giêsu, thường những anh em có đạo hay đến cầu nguyện. Trước nhà thờ khoảng 50m có một cái giếng dùng được, bên cạnh có một cây dừa. Phía sau nhà ở có một con đường mòn nhỏ mà anh em thường ra đi dạo và đánh bắt cá. Phía bên phải có một cái miếu ở trong cũng thờ tự và cạnh bên có những ngôi mộ phần nhiều là vô danh.
Cạnh nhà chúng tôi ở khoảng 50m là nhà ở của anh em quan trắc khí tượng. Chúng tôi rất mến nhau, thường chia sẻ cho nhau những mẻ cá và anh em có gì ngon cũng đem cho chúng tôi.
Ấn tượng nhớ nhất của tôi là lần đầu dạo quanh đảo, khi đến cầu cảng nhìn xuống biển thấy rất nhiều cá bơi lội, tôi vội ném xuống một quả lựu đạn. Sau tiếng nổ, cả một vùng nước chuyển sang một màu đen sì, ba chúng tôi nhảy xuống bơi lặn mãi mà cũng chẳng tìm thấy con cá nào. Lúc đó tôi có phần run sợ, lạnh nổi cả da gà vì rõ ràng cá bung lên mặt nước rất nhiều. Sau này mới rõ đó là đàn mực đang bơi. Mực không có bong bóng nên không chết tức do tiếng nổ gây nên.
Với tôi, cuộc sống trên đảo khá nhàn rỗi. Ngoài giờ ấn định phải điện để liên lạc hằng ngày với tiểu khu Quảng Nam thì tôi, đảo trưởng cũng như những binh sĩ khác thường xuyên đi đánh bắt cá. Việc đánh bắt cá không chỉ để phục vụ các bữa ăn mà còn phơi khô để lúc về đất liền dùng làm quà. Khi đi ra đảo chúng tôi cũng có chuẩn bị lưới đánh cá. Lúc nước biển bắt đầu cạn, chúng tôi dùng lưới giăng ngang mí sóng (khúc cạn gần bờ) rồi từ trong bờ hè nhau đuổi ra là có cá bắt được. Nhưng khi gặp cá nhám thì chúng sẽ xé tung lưới mà đi.
Những lúc nước xuống nhiều thì chúng tôi lội đi bắt ốc gân, nhiều con rất lớn, có thể bằng chiếc nón. Chúng tôi dùng lưỡi lê xẻ ngay tại chỗ, chỉ lấy cái gân (phần của ốc dùng để khép và mở miệng) đem về xẻ ra phơi khô (còn ngon hơn khô mực) để mang về làm quà. Những lúc không làm gì thì chúng tôi tưới cây, những hạt giống mang theo gieo rất tốt, đậu xanh, rau muống, bí đỏ. Có những quả bí chỉ mới trồng khoảng ba tháng mà rất lớn, một người bê rất khó.
Thức ăn trên đảo qua những ngày đầu nào thịt gà, vịt, heo, đến lúc hết thì chỉ cá và rau cỏ trồng. Nhớ những lúc rau muống chưa kịp lên thì dùng cá nấu với lá ớt làm canh. Ban đêm chúng tôi chia từng tốp dạo quanh đảo tìm những con rùa biển (còn gọi là con vích) lên bãi cát để đẻ. Khi bắt được, chúng tôi lật ngửa nó ra để sáng hôm sau xẻ thịt. Thịt của nó rất ngon, cái thì ăn cái thì phơi khô, riêng trứng thì tròng đỏ đổ (chiên) làm chả, không thể luộc được vì tròng trắng của nó không bao giờ chín. Lúc chẳng biết làm gì thì người đánh đàn, kẻ đánh bài ăn thua nhau bằng thuốc lá hoặc khô cá.
Cuộc sống nhàn rỗi trên đảo khiến anh em buồn và nhớ nhà, thỉnh thoảng lại có một binh sĩ khóc suốt cả đêm liền.
Ký ức của tôi chỉ tạm tái hiện phần nào. Bởi lẽ hơn 40 năm rồi tôi không thể diễn tả hết những gì mình đã nhớ trong quãng thời gian sống trên đảo. Tôi mong sao Chính phủ đấu tranh để giành lại quần đảo Hoàng Sa, giành lấy chủ quyền lãnh hải của Tổ quốc.

NGUYỄN VĂN THÀNH

Kỳ 2: Mấy mươi năm nghẹn ngào
6/01/2012 09:40 GMT+7
TT - Lần đầu tiên tôi được ra công tác tại quần đảo Hoàng Sa là giữa mùa thu năm 1971.
Phóng to
Quân đội Sài Gòn phòng thủ tại Hoàng Sa trước năm 1974 - Ảnh tư liệu
Năm ấy tôi 19 tuổi. Chúng tôi lên tàu ở cảng Tiên Sa, Đà Nẵng. Khoảng 16g chiều hôm trước - tàu chạy luôn đêm, đến Hoàng Sa vào 6-7 giờ sáng hôm sau. Những người lên đảo đợt đó có lẽ tôi là người trẻ nhất. Có mặt ở nơi đây, tôi nhớ mãi đó là đợt 45.
Tôi ra đảo để đổi cho đợt 44 đã hết nhiệm vụ. Người đầu tiên tôi gặp là anh Tạ Song - y tá của đợt 44. Cũng như bao người khác mỗi lần công tác là ba tháng, nhưng có đợt hơn thế nữa vì biển động mạnh tàu không ra được để đổi. Tôi ra đảo với nhiệm vụ là y tá, chữa và cấp thuốc cho anh em gặp phải những chứng bệnh thông thường, còn bệnh nặng báo với đảo trưởng xin tàu chở về đất liền.
Phải nói rằng được công tác tại quần đảo Hoàng Sa là một vinh dự lớn đối với những người lính chúng tôi. Song cũng có ít nhiều lo lắng và băn khoăn. Không biết đến Hoàng Sa sẽ ra sao? Vì Hoàng Sa cách đất liền hàng trăm cây số mênh mông biển nước và ở đó những ba tháng.
Tàu đến quần đảo Hoàng Sa hạ neo ngoài khơi. Chúng tôi di chuyển vào đảo bằng thuyền cao su (bơm hơi) có gắn máy nổ. Khi thuyền cao su cập bến, đặt chân lên cầu tàu để đi vào đảo, tôi thật sững sờ khi thấy đường vào đảo hai bên san hô chất cao hơn đầu người, cộng vào đó dây leo bao che kín như vào một hang động. Tôi đứng lặng hồi lâu. Đến khi anh Tạ Song hỏi: ai là y tá đi theo tôi nhận bàn giao? Lúc ấy tôi mới lần bước theo anh.
Ngày đầu tiên sống trên đảo thấy thời gian trôi thật chậm. Nhớ gia đình, nhớ bạn bè, đất liền lắm vì hồi đó tôi quá trẻ. Sau thời gian ngắn cuộc sống vui vẻ và thoải mái hơn vì quen rồi.
Mỗi buổi sáng chúng tôi dậy rất sớm, rủ nhau đi tập thể dục. Nói cho oai vậy thôi chứ tập gì. Đi bộ quanh đảo để tìm những chiếc phao thủy tinh mà tàu đánh cá nước ngoài bị đứt trôi dạt vào đảo. Chúng tôi hay gọi là trái bóng, lấy cất sau này đem về đất liền cắt ra làm chậu nuôi cá cảnh. Hoặc tìm đường đi của mấy chú vích (rùa biển) để đêm lấy trứng về cải thiện bữa ăn.
Phóng to
Bia chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa trước năm 1974 - Ảnh tư liệu
Anh Hai Song về đất liền có để lại cho tôi một ít dụng cụ câu cá. Ban đêm thì câu ở cầu tàu, ban ngày lội ra bãi san hô câu. Với đồ nghề câu anh Hai Song để lại, tôi đã câu được con cá khế khoảng 15kg. Cá, ốc ở Hoàng Sa rất nhiều.
Hoàng Sa không có núi nên cây cối cũng không lớn lắm. Ngoài dừa, dương liễu, nhãn thì chẳng có cây nào lớn hơn thế. Vậy mà không nắng nóng lắm, chắc nhờ gió biển. Cũng ở đợt này năm ấy có cơn bão lớn đi ngang qua đảo, biển động mạnh, sóng cao như mái nhà.
Sau hai lần công tác ở đảo, điều mà tôi không quên được đó là hai lần công tác tôi đều gặp được ông Võ Vĩnh Hiệp - ông là người của nha khí tượng Sài Gòn đưa ra để làm công tác khí tượng. Ông là người bị dị tật bẩm sinh cả tay và chân, thế mà ông chơi rất hay nhiều loại đàn.
Ông đã dạy đàn cho tôi hai đợt như vậy. Sau khi bị Trung Quốc bắt ông được trao trả sau năm ngày, tôi đã nhờ ông báo tin cho gia đình tôi là tôi vẫn còn sống và bị giam giữ tại Trung Quốc.
Nếu như thống kê thì ông Hiệp đã sống và làm việc tại Hoàng Sa hơn 30 lần.
Khu đồn trú của lính địa phương quân VN trên đảo Hoàng Sa (ảnh chụp năm 1959) - Ảnh tư liệu
Lần thứ hai tôi được ra đảo khoảng tháng 10-1973. Đợt ấy là đợt 54. Lần đi này tôi đã có kinh nghiệm hơn vì đã sống ở đây ba tháng rồi. Nên cuộc sống vui vẻ thoải mái hơn nhiều. Lẽ ra sau đợt công tác này tôi về sẽ cưới vợ, còn khoảng một tuần nữa là về thì bị Trung Quốc đem tàu chiến, binh lính đến chiếm đảo. Lúc ấy có cả đoàn giám sát thiết lập phi trường trên đảo bị kẹt lại, trong đó có một người Mỹ.
Mặc dù chúng tôi đã phân chia nhiệm vụ chiến đấu và giữ lấy đảo vì đảo là chủ quyền của chúng ta. Nhưng lính Trung Quốc đông quá cùng tàu chiến nhiều. Cuối cùng họ cũng chiếm được Hoàng Sa.
Tôi cùng 32 người khác bị bắt về đảo Hải Nam. Sang tàu khác thì có thêm 21 người lính hải quân bị bắt ở đảo khác. Họ đưa chúng tôi về cảng Quảng Châu, Trung Quốc, sau đó đưa chúng tôi về trại thu dung tù binh ở Quảng Châu bằng ôtô.
Ở đây khoảng một tháng, chúng tôi được trao trả cho Hồng thập tự quốc tế ở biên giới Thâm Quyến và Hong Kong. Và Hồng Thập tự quốc tế giao trả chúng tôi cho chính quyền Sài Gòn.
Lâu quá rồi tôi cũng không còn nhớ nhiều về Hoàng Sa, về quang cảnh trên đảo. Nhưng ngôi nhà nguyện, miễu Bà, cầu tàu, giếng nước... luôn ở trong tôi. Và đặc biệt là khu nghĩa trang với khoảng 50-60 ngôi mộ của những người đã sống và bảo vệ đảo, bảo vệ chủ quyền cho đất nước.
Mới đó mà đã gần 40 năm - từ ngày chúng tôi bị bắt đến nay - không có người VN nào được đặt chân lên đảo Hoàng Sa nữa. Nghĩ mà thấy nghẹn ngào...

LÊ LAN 

Kỳ 3: Những ngày tháng không bao giờ quên
17/01/2012 09:14 GMT+7
TT - Cứ đến tháng giêng hằng năm là tôi không sao xua được cảm giác thẫn thờ mất mát, bởi những ký ức về vẻ đẹp hoang sơ của Hoàng Sa cũng như ký ức đau buồn khi chứng kiến Hoàng Sa bị rơi vào tay hải quân Trung Quốc vào ngày 19-1-1974.
Mảng ký ức đó cứ lởn vởn trong đầu, như chỉ xảy ra vào hôm qua.
Phóng to
Ông Nguyễn Văn Cúc (trái) và đồng đội ở Hoàng Sa năm 1973 - Ảnh tư liệu gia đình ông Cúc
Tôi có duyên với biển cả, với đại dương và cả với Hoàng Sa. Sinh ra trong một gia đình làm nghề đánh bắt cá, tuổi thơ của tôi gắn liền với biển. Nhưng khi lớn lên, tôi chọn một nghề không liên quan tới biển, vậy mà cuộc đời đưa đẩy tôi lại công tác tại quần đảo Hoàng Sa. Giờ nghĩ lại, tôi thấy mình may mắn được làm việc, được cống hiến sức trẻ tại mảnh đất thiêng liêng ấy và tôi muốn chia sẻ để mọi người được biết, để con cháu thế hệ mai sau luôn biết rằng Hoàng Sa vô cùng tươi đẹp là một phần của Tổ quốc Việt Nam, hãy ghi nhớ Hoàng Sa là của Việt Nam và hãy giành lại chủ quyền Hoàng Sa. Ước vọng lớn nhất của đời tôi là một lần nữa được đặt chân đến Hoàng Sa để lại được sống trong không khí mát lành của biển cả, xua tan cảm giác nhớ mong.
Tôi được điều đi Hoàng Sa để khảo sát, sửa chữa và xây thêm bể ngầm chứa nước mưa, lấy nước ngọt phục vụ cả quần đảo. Cả thảy tôi ra Hoàng Sa được ba lần. Lần đầu là đầu năm 1973. Lúc đó tôi chỉ ra hai ngày để khảo sát tình hình các bể chứa nước cũ, ước lượng nguyên vật liệu cần thiết để lần sau mang ra đảo. Lúc tàu gần đến đảo, tôi có cảm giác lâng lâng khó tả vì sắp đặt chân lên vùng đất thiêng liêng.
Ở trên đảo một ngày, tôi cùng năm người nữa đi tham quan đảo chim. Đây là cảnh tượng làm tôi thích thú và ngạc nhiên nhất khi ở Hoàng Sa. Trên đảo có vô số chim và con vích đẻ trứng, đặc biệt chúng không sợ sự xuất hiện của chúng tôi. Cảnh tượng hoang sơ với những hốc đá và nhiều chim biển làm chúng tôi cảm thấy thích thú.
Lần thứ hai tôi ra đảo là bắt tay vào sửa chữa, xây dựng các bể ngầm chứa nước ngọt. Các bể này xây từ thời Pháp thuộc. Khoảng 20 bể, mỗi bể chứa khoảng 1.000m3 nước, được xây ngầm xung quanh ngôi nhà để chứa nước mưa từ trên trần nhà đổ xuống. Đây là khoảng thời gian lâu nhất tôi ở Hoàng Sa. Ở trên đảo, một ngày trôi qua rất bình dị, sáng dậy tập thể dục sau đó ăn cơm rồi bắt tay vào làm việc. Công việc được phân chia cụ thể, rõ ràng cho từng người nên ai làm việc nấy, tới giờ ăn trưa, đi ngủ rồi làm tiếp. Buổi chiều khi công việc đã xong, tôi thường lang thang đi dạo xung quanh đảo và hay đến cầu tàu ngồi hóng gió. Đó là những lúc tôi nhớ nhà nhất. Khi tôi ở ngoài đảo thì vợ tôi mang thai đứa con thứ hai. Để quên đi nỗi nhớ nhà, thỉnh thoảng tôi cùng anh em chơi đá bóng hay đi câu cá, bắt ốc. Đó là thú vui chính của chúng tôi.
Phóng to
Đào giếng nước ngọt trên đảo Hoàng Sa năm 1938 - Ảnh tư liệu
Tôi không nghĩ lần thứ ba ra đảo để lấy mẫu đất, khảo sát thực địa, làm sân bay cũng là lần ra đảo cuối cùng. Khi đã lấy được mẫu đất, khảo sát xong thực địa chúng tôi lên tàu rời khỏi đảo về đất liền. Đang lênh đênh trên biển thì gặp tàu chiến của Trung Quốc. Họ áp sát tàu chúng tôi, buộc quay về lại đảo. Cảm giác bàng hoàng khi trực tiếp chứng kiến Hoàng Sa bị chiếm. Cảm giác đau đớn và xót xa khi thấy mảnh đất của Việt Nam rơi vào tay kẻ khác.
Sau một ngày bị bắt giữ trên đảo, lính Trung Quốc cho tàu nhỏ chở chúng tôi về đảo Hải Nam. Sau đó đưa chúng tôi lên tàu lớn về Quảng Châu - Quảng Đông (Trung Quốc). Chúng tôi ở đó cả tháng trời. Đó là lần đầu tiên tôi đón tết ở nơi đất lạ, cảm giác hờn tủi đau đớn khi ăn tết xa quê hương, vợ con, bên cạnh đó lại mang nỗi niềm chua xót khi Hoàng Sa bị chiếm giữ. Trung Quốc trao trả chúng tôi cho Hồng thập tự quốc tế tại Hong Kong. Tôi là một trong năm người đầu tiên được trao trả. Chúng tôi lên máy bay về sân bay Tân Sơn Nhất. Rồi về Đà Nẵng. Niềm vui được đoàn tụ cùng gia đình, được quay về quê hương đất nước cũng không thể xua tan nỗi buồn mất Hoàng Sa.
Tôi có đôi lời nhắn nhủ con cháu cũng như các thế hệ mai sau là cần phải hiểu rõ lịch sử của Hoàng Sa, về sự gian khổ, khó khăn đi khai phá giữ gìn Hoàng Sa của cha ông từ thời chúa Nguyễn. Luôn ghi nhớ Hoàng Sa là của Việt Nam. Bằng mọi giá phải lấy lại chủ quyền Hoàng Sa cho Việt Nam.
Vùng đất này chỉ trồng dương liễu và cây nhàu, rất khó có thể trồng được loại rau quả nào. Bên bãi trồng cây dương liễu có một cái miếu, có tượng đồng đen và xung quanh có khoảng 25 ngôi mộ được đắp bằng đất. Người trên đảo nói miếu đó rất linh thiêng. Nghe đâu năm 1968 có ông thuyền trưởng định đưa tượng đồng đen về chùa ở Đà Nẵng để thờ, nhưng khi chuẩn bị vào cúng thì chiếc thuyền cứ xoay vòng, không thể tiến về bến cảng. Ông thuyền trưởng thấy vậy đem tượng trở lại miếu. Tôi ăn tết ở ngoài đảo nên mồng 1 tết tôi có ra miếu để thắp hương.
Ở ngoài đảo sợ nhất là cảnh thiếu nước, chúng tôi sử dụng nước mưa, được chứa ở các bể ngầm xung quanh nhà khí tượng. Tôi đã chứng kiến ba lần bị thiếu nước, mỗi lần kéo dài khoảng 10 ngày. Khát quá nên chúng tôi lấy nước giếng lên để dùng, nhưng nước giếng chỉ uống được khi còn nóng, để nguội rất khó uống. Uống nước giếng này liên tục ba ngày sẽ bị đau bụng, nhưng thuốc men lại không có. Anh em lúc đó chia sẻ với nhau từng thìa đường, miếng sữa. Những lúc đó mới thấm được tình cảm của anh em xa nhà như thế nào.
__________
NGUYỄN VĂN CÚC

Kỳ cuối: Tiếng chim cuốc Hoàng Sa
18/01/2012 07:02 GMT+7
TT - 38 năm đã trôi qua. 38 năm làm thay đổi bao nhiêu là sự việc. Nhưng trong tôi 38 năm như chỉ mới hôm qua. 
Những phụ nữ Việt Nam trên đảo Hoàng Sa (1940) - Ảnh tư liệu
Khoảng tháng 10-1973, tôi cầm sự vụ lệnh về tiểu khu để nhận thuốc men đi đảo Hoàng Sa.
Tôi lúc đó tuổi đôi mươi. Không vướng bận vợ con, chút máu lãng tử trong người trỗi dậy. Hơn nữa nghe truyền thuyết kể rằng: “Ngày xưa triều đình lập đội Hoàng Sa. Khi đưa tiễn và đi giữ biển đảo quê hương, họ được xem như những anh hùng, một đi không trở lại”. Còn mình hôm nay tàu to, súng lớn có gì mà e sợ.
Chiều hôm đó chúng tôi có mặt tại cảng Tiên Sa. Chiếc tàu “Hương Giang 404” sừng sững uy nghi đang sẵn sàng vượt trùng khơi.
Tập kết lương thực, súng ống xuống tàu xong, tàu nhổ neo. Tạm biệt đất liền chúng tôi vượt biển đến Hoàng Sa.
Sau một đêm vật vã vì biển động mạnh, sáng hôm sau tàu đến đảo. Hải đảo Hoàng Sa như một dải cát vàng trải dài trong nắng sớm. Nước quanh đảo xanh như mạ non. Từng đợt sóng lăn tăn đuổi nhau vào bờ, tạo nên một không gian thanh bình yên ả.
Tôi thật sự choáng ngợp. Quê hương ta đẹp biết bao!
Bàn giao giữa hai toán quân xong, chúng tôi ở lại, anh em đợt trước về đất liền.
Mặt trời lặn xuống biển. Hoàng hôn vừa trùm lên đảo. Bỗng tiếng con chim cuốc trong rừng bàng kêu lên từng hồi, tạo cho cảnh kẻ ở người về buồn man mác. Tiếng cuốc kêu sao da diết nhớ thương.
Rồi thời gian cũng qua đi, chúng tôi thích nghi dần với cuộc sống của một cư dân trên đảo.
Chúng tôi chia thành năm tổ, mỗi tổ bảy người. Nhà ở thì có một tòa nhà đúc bêtông, có sân thượng và một vọng gác, trên đó có một khẩu súng 12,7 li, dưới nền nhà là hầm chứa nước mưa để uống. Kế bên tòa nhà của lính là đài khí tượng. Ngoài biển vào có một cầu tàu có đường ray để vận chuyển vào đảo và từ đảo ra tàu nhưng nay đã hư hoàn toàn.
Trên đảo cũng có nhà thờ và chùa nhưng đã hoang phế, chỉ có ngôi miếu là còn tươm tất. Đặc biệt trên đảo Hoàng Sa có một giếng nước ngọt mà các đảo khác không có.
Phóng to
Bia chủ quyền Việt Nam do người Pháp dựng ở Hoàng Sa năm 1938. Trên bia có ghi rõ: Vương quốc Đại Nam 1816 - năm vua Gia Long bắt đầu thực thi chủ quyền của Việt Nam tại các đảo Hoàng Sa - Ảnh tư liệu
Biển đảo hiền hòa và hào phóng. Cung cấp hải sản không thiếu một thứ gì! Nhưng cũng có lúc nổi cơn giận dữ, biển thét gào với những trận cuồng phong. Những đợt sóng cao như trái núi lừ lừ tiến vào đảo trông thật kinh hoàng, nhưng điều may mắn là Hoàng Sa chưa bao giờ ngập trong sóng biển.
Có một lần biển động, bão đến bất ngờ. Một tàu cá Trung Quốc không kịp vào bờ tránh bão nên đã tấp vào đảo ngay trong đêm. Bão mạnh dần, chiếc tàu cá bị đánh dạt mất giữa biển khơi.
Phương tiện không còn, gia đình ngư dân Trung Quốc kia lại trở thành cư dân bất đắc dĩ của đảo.
Mặc dù lương thực sử dụng đã được tính toán chi li, nhưng tình người trong cơn hoạn nạn, ai nỡ ăn no để nhìn người khác đang đói. Vậy là toàn đảo sẻ chia, cưu mang gia đình Trung Quốc kia cho đến ngày họ xin được tàu về lại quê hương.
Ngày chia tay họ cũng ôm hôn anh em trên đảo, ngôn ngữ bất đồng nhưng trong đôi mắt hiện lên bao sự quyến luyến và biết ơn những người Việt Nam.
Thế rồi những ngày tiếp theo đó, tàu Trung Quốc đến đánh bắt cá tại vùng biển đảo Hoàng Sa càng nhiều hơn. Khi tàu hải quân Việt Nam tuần tra thì họ chạy ra hải phận quốc tế, khi tàu hải quân đi rồi thì họ lại buông neo thả lưới quanh đảo.
Anh em trên đảo chỉ có nhiệm vụ giữ đảo, còn đẩy đuổi ngư dân nước ngoài xâm phạm lãnh hải thì phương tiện không có.
Ba tháng rồi cũng trôi qua, chiếc tàu “Chí Linh 11” đón chúng tôi về lại đất liền, buổi chiều di chuyển ra tàu, con chim cuốc trong rừng bàng lại kêu từng hồi, như nhắn nhủ hãy nhớ về lại với Hoàng Sa.
Tàu nhổ neo, chạy một vòng quanh đảo để chào từ biệt. Đâu biết rằng lần chia tay đó Hoàng Sa chỉ còn trong tưởng nhớ không nguôi. Nhớ đêm chia tay, anh em rủ nhau đốt lửa, thức cùng Hoàng Sa. Tiếng hạ uy cầm của chú Võ Vĩnh Hiệp bên đài khí tượng hòa cùng tiếng hát bên ánh lửa bập bùng. Giữa muôn trùng sóng gió tiếng hát vẫn cất cao như miệt mài, như nhắc nhủ: “Một ngàn năm... một trăm năm...”.
Chiều nay đi giữa quê lại nghe tiếng chim cuốc kêu. Bỗng bồi hồi nhớ đến con chim cuốc ngày nào trên đảo Hoàng
Sa. Chắc bây giờ chiều chiều nó vẫn gióng lên tiếng kêu thương khắc khoải hướng về đất liền với bao nỗi chờ mong.
Riêng tôi, khi nào Hoàng Sa còn nằm trong tay kẻ cậy mạnh hiếp yếu, thì tiếng con chim cuốc trong ta sẽ còn mãi kêu lên dù cho nhỏ đến giọt máu cuối cùng, hầu nhắc thế hệ mai sau rằng: “Ta phải về Hoàng Sa”.
Tháng 10-1969 nhận được sự vụ lệnh của đơn vị, tôi ra làm đảo trưởng Hoàng Sa cùng 35 người lính và bốn nhân viên khí tượng, với nhiệm vụ giữ an ninh đảo và bảo vệ chủ quyền đảo Hoàng Sa. Đồng thời liên lạc báo cáo tin tức về an ninh, thời tiết khí tượng về đất liền.
Mổ heo cúng đảo xong, sáng hôm sau tôi đi quan sát một vòng trên đảo. Không khí rất ấm áp và dễ chịu với những bãi cát mịn trắng phau. Khi ra bờ biển nhìn xung quanh, tôi thấy những đảo nhỏ phía xa xa. Và ngay tại bờ biển tôi thấy có một nghĩa địa chôn những người đã mất khi làm nhiệm vụ trên đảo. Kế nghĩa địa là miếu Bà. Trong miếu thờ Phật Quan Âm.
Trung tâm đảo có một tòa nhà chính và kế bên là nhà khí tượng. Tòa nhà chính do Pháp xây cất lúc nào trên đảo chúng tôi không biết. Nhưng tòa nhà rất chắc chắn với tường dày đến 2m để chống chọi lại những cơn bão. Khi trở về, tôi đã ghi lại trên đường theo thứ tự của những đợt ra quân giữ gìn đảo từ đợt 1 đến đợt 36 và tôi là đợt 37 (tháng 10-1969).
Mặc dù tháng 10 nhưng thời tiết ngoài đảo rất ấm áp. Mỗi ngày chúng tôi đi quan sát xung quanh đảo và báo cáo tin tức an ninh cùng thời tiết khí tượng về đất liền.
Sau hơn ba tháng trên đảo, đã đến ngày chúng tôi và bốn nhân viên khí tượng trở về đất liền để đợt mới ra thay.
Chúng tôi náo nức trở về đất liền và mang theo những luyến tiếc, những kỷ niệm vui buồn cùng Hoàng Sa - một quần đảo thân yêu của đất nước mà nhiệm vụ của chúng ta bây giờ là phải tranh đấu mãi mãi.
NGUYỄN VĂN ĐỨC (nguyên đảo trưởng Hoàng Sa)
TRẦN HÒA