Tìm kiếm Blog này

Hiển thị các bài đăng có nhãn Biên soạn. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Biên soạn. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 24 tháng 12, 2015

Diễn biến trận đánh

Nguồn tham khảo:
Trần Đỗ Cẩm: ... Lưc lương hải quân hai bên 
Vũ-Hữu-San: Các Chiến-hạm & Chiến-thuyền Tham-dự trận Hải-chiến
Lịch sử cuộc chiến VNCH -  Hải Chiến Hoàng-Sa 19-01-1974
Bí Mật Về "Hải Chiến Hoàng Sa 1974" và Những Điều Chưa Biết 
Tài liệu của Trung cộng - Quốc Trung dịch
Tây-Sa Hải-Chiến ("Lược-Sử Hải-Quân VNCH" Vũ-Hữu-S...
19/1/1974 魏鸣森lệnh mật khẩu


Trước khi hải chiến xảy ra


TQ: Vào lúc 10h30 ngày 15 tháng Giêng, các tàu hải quân Nam Việt 16 "Lý Thường Kiệt" dấu (Lý Thường Kiệt, HQ-16) kéo vào đảo Paradise, và biển Nam Trung Quốc công ty đánh cá ngư thuyền đánh cá "Fishing Nam 402.407." đối đầu tròn xảy ra, tiếp theo là bắn phá đảo Oasis kéo lá cờ quốc gia của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, và 402 tàu thuyền đánh bắt cá trong vùng biển hơn hai trăm mét, đi từ các bến tàu, trong cùng một ngày 17 giờ sáng, miền Nam Việt Nam trên tàu 16 xuống một chiếc tàu chở bảy vũ trang Thủy quân lục chiến, sĩ quan có một walkie-talkie để cố gắng lên tàu đánh cá 402 lục lọi. 402 tàu thuyền đánh cá trong cuộc nổi dậy, thuyền Việt Nam quay lại và lái xe trở lại.


Buổi sáng ngày 16-1-1974, HQ16 cho xuồng đổ bộ phái đoàn Công Binh lên đảo Pattern, công tác hoàn tất tốt đẹp. Đến trưa, vị sĩ quan trực Quart 1200-1500H là Hải Quân Trung úy Đào Dân bỗng phát hiện một con tàu lạ trước mặt đảo Cam Tuyền (đảo Robert), chiếc tàu nhỏ, cỡ tàu đánh cá. Chiến hạm đánh đèn yêu cầu tàu lạ cho biết xuất xứ, đúng theo qui luật hàng hải quốc tế nhưng tàu lạ vẫn im lặng. Để gợi sự chú ý và cũng để đuổi tàu lạ ra khỏi lãnh hải, chiến hạm cho bắn chỉ thiên một tràng đại liên 30. Tiếng súng nổ dòn dã giữa buổi trưa yên tĩnh trên mặt biển nhưng đối tượng vẫn lì lợm, không nhúc nhích. Khi tàu ta đến gần hơn thì mọi người đều chưng hửng vì tàu lạ là tàu Trung Cộng, mang cờ nền đỏ với các ngôi sao vàng ở ngay góc. Sự xuất hiện của chiến hạm Việt Nam cũng làm khuấy động sự sinh hoạt trên tàu Trung Cộng, hàng chục binh sĩ của họ lên boong nhìn sang tàu ta bằng những đôi mắt soi mói, kỳ lạ lẫn ngạc nhiên 

Thứ Tư, 23 tháng 12, 2015

Đào thoát, bị bắt, cứu nạn

Sau hải chiến Hoàng Sa ,ai là người đã đào thoát ? 
Hải chiến Hoàng Sa Kỳ 5: HQ 10 tử chiến đâm vào tàu Trung Quốc, hai Hạ Sĩ quan ở lại chết theo tàu.
Trung Úy Nguyễn Đông Mai HQ10 -Lần Đào Thoát Ở Hoàng Sa 
Chiếc HQ-10 khi bị trúng đạn, hư máy không chìm liền, sau đó một giờ 2 tàu TQ tăng cường đến bắn phá tiêu diệt nốt số người còn sống, tàu chìm hẳn, số quân nhân đào thoát lênh đênh trên biển chết thêm 5 người nữa...



Bn v ca Hà Đăng Ngân, lưu ý v hình v này v v trí khác thường ca HQ10
Link tham khảo:
Bảng Phân Tích Thời Gian Hộ Tống Hạm HQ10 – Nhật Tảo

Lần đào thoát ở Hoàng sa
Hải chiến Hoàng Sa 1974 - Hộ Tống Hạm Nhật Tảo (HQ10) đi vào lịch sử
Không thấy Đại tá Hà Văn Ngạc, Hải đội trưởng nói gì về quyết định HQ-4 và HQ-5 rút khỏi trận đia, bỏ lại HQ-10 đang lâm nạn. Tàu HQ-16 đó vài hải lý, được cho là bị nghiêng không đến cứu được thì tại sao đi 230 hải lý về tới Đà Nẵng. Trong khi đó các tàu TQ cũng bị thiệt hại nặng không kém,  3 tàu này vẫn đủ khả năng giải vây cứu hộ cho HQ-10???





Trong hình ảnh có thể có: một hoặc nhiều người, mọi người đang đứng và ngoài trời

Hình lộ ít được biết đến Xisha Battle: chiến tranh Việt Nam (Ảnh) trên Biển Đông


Thiếu tá Phạm Văn Hồng, Trưởng toán công binh:

Cuộc đời tù binh
Sau khi Trung Cộng bắt được tôi, chúng không đánh đập nhưng có dọa nạt và áp đảo tinh thần. Khoảng 2, 3 giờ chiều chúng cho chúng tôi ăn cơm, ăn với thịt heo của anh em Địa Phương Quân nuôi, như tôi đã trình bày ở phần trước, nói là thịt heo nhưng thật sự chỉ có mỡ thôi, còn nạc bọn lính Trung Cộng ăn hết rồi. Ăn xong nó nhốt chúng tôi trong căn nhà có lẽ trước đây dùng chứa phân chim hay làm cái gì đó tôi không biết rõ. Đến khuya chúng nó bắt tất cả anh em ra xếp một hàng dọc ngoài sân. Tôi nghĩ trong đầu chắc chúng đem đi xử bắn. Một vài anh em trong bọn tôi có vẻ lo lắng, thấy thế tôi mới trấn an: “Các anh cứ bình tĩnh, dù chúng ta có chết cũng chết cho tổ quốc, đừng sợ, cứ bình tĩnh và giữ khí phách của một người lính VNCH”. Nhưng cuối cùng chúng không bắn ai hết!

Di chuyển qua Trung Quốc
Gần rạng sáng chúng cho chúng tôi lên tàu, tôi nghe ngoài biển có nhiều tiếng lào xào, nhìn ra thì thấy nhiều chiếc dzu dzu đang chèo vô bờ. Nó chuyển chúng tôi cứ 4, 5 người xuống một xuồng cao su (dzu dzu) và đưa ra tàu Kronstad. Nhóm sĩ quan nó đưa riêng lên một tàu, mấy chục anh em Hạ sĩ quan, binh sĩ lên các tàu khác và tàu bắt đầu di chuyển. Khoảng trưa hôm sau, tức là trưa 20-1-1974, chúng tôi tới đảo Hải Nam. Nó cho tôi lên bờ trước, sau đó mới đưa các anh em còn lại lên, rồi nó đưa đám sĩ quan vào phòng ăn riêng gồm tôi và 1 Trung úy Hải Quân, 1 sĩ quan Địa Phương Quân, 2 sĩ quan Công Binh và anh Kosh, cả thảy là 6 người. Sau khi ăn cơm xong, chúng đưa chúng tôi ra phi trường để bay về Quảng Châu. Khi lên máy bay chúng đưa tên Kosh lên ngồi trên cabin, còn anh em chúng tôi ngồi ở khoang dưới. Đến Quảng Châu trời đã tối. Riêng nhóm Hạ sĩ quan, binh sĩ và nhân viên đài Khí tượng chúng nhập chung thành một toán cho xuống tàu lớn chở về sông Châu Giang cũng thuộc thành phố Quảng Châu.
Hôm sau tất cả đám tù binh gồm 49 người, tính luôn cả anh Kosh người Mỹ; trong đó có 23 chiến sĩ Địa Phương Quân, 6 người toán chúng tôi, 5 nhân viên Khí tượng và 14 quân nhân Hải quân, có thêm một sĩ quan nữa là HQ. Trung úy Nguyễn Văn Dũng.
Tôi bị gọi lên lấy khẩu cung nhiều lần, chúng cố tình khai thác tôi về tổ chức quân đội VNCH, nhưng tôi viện lý do “bí mật quân sự”, phòng nào biết phòng đó, tôi chỉ nói một cách tổng quát và cứ lập đi lập lại rằng, bên quân đội chúng tôi bảo mật rất kỹ, tôi chỉ biết danh số có những phòng gì, còn mỗi phòng có những ai, làm việc gì, điều đó tôi không biết. Tôi thấy nó chú tâm vào anh Hải quân Trung úy nhiều hơn tôi, có lẽ muốn điều tra, khai thác kỹ về Hải quân của ta để dự phòng những trận hải chiến sau này có thể xảy ra. Sau khi bị giam một tuần lễ, chúng lựa ra mỗi toán một người để thả. Người đầu tiên là anh Kosh, chúng cho biết anh này bị một bệnh mà họ gọi nguyên văn là “mãn tính kinh niên” nên cho về sớm, bên Khí Tượng thả một người, bên Địa Phương Quân thả một người, bên Hải quân thả một anh bị thương nhẹ...
Cách đối xử của Trung Cộng với tù binh
Phải công bằng mà nói, viết lịch sử thì phải viết trung thực, không nên viết theo kiểu tuyên truyền, cho nên tôi nói rất thật là Trung Cộng hơn hẳn Việt Cộng trong cung cách đối xử với tù binh. Họ cho chúng tôi ăn uống theo quy chế tù binh chiến tranh đã được quốc tế qui định, như tôi mang cấp bậc Thiếu tá thì để tôi ở một phòng riêng, bốn Trung úy thì cứ hai ông một phòng, như vậy chúng tôi có ba phòng ở liền nhau, còn ông Kosh người Mỹ một phòng riêng. Mỗi ngày họ đem đồ ăn lên tận phòng cho chúng tôi, còn anh em Hạ sĩ quan và binh sĩ thì ăn ở nhà ăn tập thể của quân đội Trung Cộng. Sau thời gian 2, 3 tuần phải học tập mỗi ngày vào buổi tối để nghe cán bộ Trung Cộng tuyên truyền thế này thế nọ. Tuần lễ thứ tư họ dẫn chúng tôi đi thăm vài nơi (mấy anh chàng Trung Cộng nói tiếng Bắc, bảo là dẫn chúng tôi đi tham quan). Đầu tiên thăm một Bệnh viện rồi thăm mấy hợp tác xã. Tôi để ý, hầu như tất cả các nơi gọi là Trụ Sở Hợp Tác Xã đều là những ngôi chùa xưa kia, bởi vì kiểu dáng là chùa, chữ đắp trên tường tuy bị đục bỏ hết nhưng vẫn còn dấu tích rõ ràng, điều đó cho thấy tín ngưỡng đã bị đè bẹp tại nước Cộng Sản đông dân nhất thế giới này!
Sau khi thăm các hợp tác xã, họ dẫn đi thăm nhà máy cơ khí. Tại đây họ giới thiệu là nơi đúc các khẩu Thượng liên và súng AK, sau đó lại dẫn đi xem nhà máy làm xe đạp, gọi là xe đạp Hồng Kỳ thì phải, rồi thăm một vài cư xá của công nhân. Tôi có hỏi một công nhân, lương hàng tháng được bao nhiêu, thì người công nhân nói được trên 100 Nhân dân tệ, trong lúc đó chiếc xe đạp Hồng Kỳ trị giá 130 Nhân dân tệ, cho ta thấy mức sống của một công nhân trong chế độ Cộng Sản Trung Quốc như thế nào.
Trao trả tù binh
Tôi còn nhớ hôm đó là thứ Bảy, có lẽ ngày 16, 17 tháng 2 năm 1974, sau khi cho chúng tôi ăn uống xong, họ tập trung lại và tuyên bố sẽ trả chúng tôi về Việt Nam. Họ phát cho mỗi người một bộ quần áo màu xanh và cái mũ mà anh em chúng tôi gọi đùa là cái bánh tiêu. Một tên cán bộ hỏi tôi muốn về miền nào, Bắc hay Nam Việt Nam. Tôi trả lời: “Chúng tôi là người Việt Nam, Bắc hay Nam đều là tổ quốc tôi, nhưng hiện tại hai miền có hai thể chế khác nhau, tôi không chấp nhận chế độ của miền Bắc, tôi yêu cầu trả chúng tôi về miền Nam”.
Họ đưa chúng tôi từ huyện Hoàng Hóa về thành phố Quảng Châu, đường dài hơn 40 cây số, rồi lại từ Quảng Châu đưa ra Tô Giới tức là Thẩm Quyến để trao trả chúng tôi tại Hồng Kông.

Thiếu Tá Hồng sau khi được trao trả tù binh

Ngay khi chúng tôi bước qua lằn ranh từ Thẩm Quyến sang Hồng Kông, người đầu tiên chúng tôi gặp là ông Tổng Lãnh Sự VNCH tại Hồng Kông. Ông niềm nở đón tiếp chúng tôi và cho người mang đến cho tất cả anh em chúng tôi mỗi người một bộ quần áo dân sự mới toanh. Khi lên xe buýt ra phi trường Khải Đức, chúng tôi vứt bỏ lại trên xe bộ quần áo xanh do Trung Cộng cấp phát và thay đồ dân sự.

Ra đến phi trường, chúng tôi hết sức xúc động thấy Phó Đề Đốc Lâm Ngươn Tánh, Tư Lệnh Phó Hải Quân và một sĩ quan cao cấp bên Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị (tôi không nhớ tên) đến đón. Vị này mang cho chúng tôi quân phục đầy đủ, ai binh chủng gì thì mặc quân phục binh chủng đó, ông còn mang cho tôi cặp lon Thiếu tá nữa. Chúng tôi lại thay đồ dân sự và mặc quân phục về nước. Chính phủ VNCH thuê nguyên một chuyến Boeing 727 của Hàng Không Việt Nam qua Hồng Kông đón chúng tôi trở về sau một tháng bị Trung Cộng bắt làm tù binh. Về đến phi trường Tân Sơn Nhất, ngoài thân nhân, chúng tôi còn được đại diện các cơ quan chính phủ và quân đội đón tiếp, choàng vòng hoa và đưa về trại an dưỡng Lê Văn Duyệt để nghỉ ngơi. Câu chuyện bí ẩn trận Hoàng Sa và cuộc đời tù binh của tôi kết thúc.


Trung uý Võ Hà, Phó toán công binh trên đảo Hoàng Sa:
Cho đến 10h đêm hôm đó, một sĩ quan Trung Quốc nói với chúng tôi qua phiên dịch tiếng Việt “Chúng tôi coi các anh là tù binh”. Tù binh - Như vậy đồng nghĩa chúng tôi sẽ không bị giết.
Chúng tôi bị đưa đến đảo Hải Nam và giam lại. Nhóm sĩ quan tiếp tục bị đưa đến Quảng Châu giam chung với các tù binh Liên Xô, Ấn Độ,… Một tháng sau, nhóm tù binh đầu tiên trong đó có tôi được đưa về Thẩm Quyến để đến Hồng Kông và trả về nước.
Tại Hồng Kông lúc đó có rất nhiều phóng viên nước ngoài của các báo danh tiếng như Times, The New York Times… đang túc trực để lấy tin về trận chiến Hoàng Sa.




Hai chien Hoang Sa: Ky uc nhung ngay bi Trung Quoc bat lam tu binh
Tất cả nhóm tù binh do Trung Cộng trao trả, đã về tâp trung tại trại dưỡng quân Lê Văn Duyệt, Sài Gòn – ảnh do Thiếu tá Phạm Văn Hồng cung cấp.

Đại tá Ngạc
Tuần-dương-hạm HQ5, sau khi tái tiếp-tế đạn và hàn vá các hư-hại đã cùng HQ6 ra khơi tìm-kiếm các nhân-viên đào-thoát khỏi vùng Hoàng-Sa. Các phi-cơ C130 đã bay lượn trong một vùng duyên-hải hạn-chế để tránh sự hiểu nhầm về hành-động khiêu-khích của Việt-Nam đối với Trung-cộng. Các phi-cơ hướng-dẫn các chiến-hạm xem xét các vật trôi trên mặt biển nhưng vẫn chưa cấp-cứu được nhân-viên nào ngoại trừ vỏ một thùng xăng dự-trữ . Tôi vẫn có mặt trên Tuần-dương-hạm HQ5 để tham-dự cuộc tìm-kiếm.


Công tác tìm kiếm và cứu vớt các chiến sĩ đào thoát.
Lực lượng tham dự cuộc tìm kiếm gồm có Tuần Dương Hạm Trần Quốc Toản HQ6, hai chiếc Tuần Duyên Đỉnh (WPB) và 1 phi cơ C-119.
Bản văn từ Tòa Đại Sứ Mỹ cũng cho biết là các giới chức thẫm quyền VNCH quan tâm đến số phận của thủy thủ đoàn HQ10 mà lần sau cùng đã được thấy không người điều khiển gần đảo Vĩnh Lạc (Money). Với dòng nước biển chảy bình thường sẽ đưa HQ10 hoặc là nếu chiến hạm bị chìm sẽ đưa những người sống sót đến khoảng 70 hải lý về hướng Tây Nam của khu vực nằm trong các tọa độ A, B, C và D.
Bản văn còn cho biết là chánh phủ VNCH chỉ thị phái đoàn VN ở Geneva lập tức thông báo cho Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế những điều đã đề cập ở trên và yêu cầu Hội thông báo Bắc Kinh về bản chất và phạm vi của cuộc hành quân, ngoài ra còn yêu cầu chánh phủ Hoa Kỳ xử dụng các phương tiện thông tin trực tiếp với Bắc Kinh trong nỗ lực để đảm bảo là Bắc Kinh cũng biết rõ về chiến dịch hoàn toàn có tính chất nhân đạo này.
Về phần Đại Sứ Martin, ông cũng khuyến cáo Bộ Ngoại Giao Mỹ nên tiếp xúc với Phái đoàn liên lạc TC ở Hoa Thịnh Đốn hoặc Văn phòng Liên Lạc Hoa Kỳ ở Bắc Kinh để yêu cầu TC thông báo đến các giới chức thẫm quyền quân sự của họ về chiến dịch này và Bộ Ngoại Giao có thể chỉ thị Phái Đoàn Hoa Kỳ ở Geneva tạo điều kiện để Phái đoàn Việt Nam tại Geneva và Hội HTT quốc tế gặp gỡ nhau.
Những lời khuyến cáo của Đại Sứ Martin đã được Ngoại Trưởng Kissinger chấp thuận, vì vậy ngay sau đó Ngoại Trưởng Kissinger đã gởi điện thư cho Văn Phòng Liên Lạc Mỹ ở Bắc Kinh yêu cầu họ thông báo với Bộ Ngoại Giao TC về cuộc hành quân cứu cấp này. Ngoài ra cũng giải thích cho Bắc Kinh biết là Mỹ làm việc này theo sự yêu cầu của chánh phủ VN và với tính cách nhân đạo, còn việc đề nghị Bộ Ngoại giao TC thông báo cho cấp chỉ huy quân sự TC là tùy ở Văn Phòng Liên Lạc.
Trong khi các chiến hạm và phi cơ VNCH đang bắt đầu việc tìm kiếm thì vào lúc 6 giờ 30 chiều ngày 22-1-1974 tàu dầu Kopionella thuộc hảng Shell mang quốc tịch Hòa Lan đã tìm thấy và vớt tất cả 22 người (5) thuộc HQ10 còn sống sót lên tàu tại toạ độ 16 độ 10?T N và 110 độ 46?T E cách Đà Nẵng khoảng 287 km về hướng Đông, như vậy toán đào thoát đã trôi trên biển trong khoảng 78 giờ với khoảng cách độ 110 km.
Sau khi lên tàu Thượng Sĩ Châu vì quá kiệt sức nên đã trút hơi thở cuối cùng, ngoài ra có 4 người bị thương nặng. Tất cả đã được từ Thuyền Trưởng, Thuyền Phó và phu nhân của các vị này cùng thủy đoàn tàu dầu Kopionella tận tình chăm sóc. Với tư cách Sĩ quan thâm niên hiện diện, HQ Trung Úy Phạm Văn Thì đã được Thuyền Trưởng đưa vào phòng của ông để liên lạc với cấp chỉ huy Hải Quân Việt Nam.
Sáng ngày 23-1 lúc 5 giờ 15 tất cả đã được chuyển sang Tuần dương Hạm Trần Quốc Toản HQ6 để đưa về Đà Nẵng.
Qua lời thuật lại của các chiến sĩ sống sót, cuộc hành quân cứu vớt tiếp tục sang ngày 23-1 với hy vọng tìm thấy bè bằng cây trên đó có TS/VC Đa và TS/TP Nam, nhưng đến 6 giờ 15 phút chiều cùng ngày phi cơ tuần tiểu đã phát giác hai mãnh ván tại tọa độ 15 độ 43?T Bắc ?" 110 độ 02?T Đông, nhưng khi chiến hạm được điều động đến nơi mọi người đều thất vọng vì chỉ thấy 2 miếng ván không người.
Cuộc hành quân tìm kiếm và cấp cứu đã được chấm dứt ngay sau đó.
Ảnh chiếc tàu Hòa Lan Kopionella đã vớt một số sỹ quan, binh lính VNCH trôi dạt trên biển.



Điều khó hiểu về tù binh trong hải chiến Hoàng Sa (Kỳ 3)
07:00 | 08/01/2014 0 Ý kiến phản hồi
(PetroTimes) - Đề cập đến việc trao trả các binh sĩ VNCH bị Trung Cộng bắt giữ sẽ làm rõ nhiều vấn đề, nhất là về thái độ của các nước có liên quan trực tiếp là Trung Cộng và VNCH cũng như tổ chức Hồng thập tự quốc tế, bởi việc trao trả tù binh “không như bình thường”, báo chí đương thời bị bưng bít nhiều thông tin, không tiếp cận được với các tù binh và những người thực hiện việc trao trả tù binh.
Tái chiếm đảo
Sau khi cuộc hải chiến diễn ra, cả hai bên giao chiến đều có những thiệt hại nhất định dù ưu thế quân sự nghiêng về Hải quân Trung Cộng. Bởi vậy, việc bắt chiến sĩ Hải quân VNCH làm tù binh theo những thông tin báo chí lúc bấy giờ có những sắc thái khác nhau. Trong tổng số các chiến sĩ VNCH tham gia vụ Hoàng Sa, sau cuộc đụng độ đã phân tán thành 4 bộ phận khác nhau.
Bộ phận thứ nhất, điển hình là các chiến sĩ thuộc Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt (HQ-16), dù bị trúng đạn nhưng Tuần hạm dương vẫn còn hoạt động được và về đến Sài Gòn. “Ngày 30-1-1974, Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt trúng đạn Trung Cộng về tới Sài Gòn và được đón tiếp trọng thể tại bến Bạch Đằng với sự tham dự của nhiều thân nhân thủy thủ đoàn".
Bộ phận thứ hai là do phương tiện chiến đấu bị hư hỏng nên không thể hoạt động hoặc bị chìm, sau đó được cứu trợ bởi tàu nước ngoài như trường hợp của 23 thủy thủ thuộc Hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ-10). “Chiếc hộ tống hạm trên chở 82 thủy thủ nhưng tàu của Hà Lan chỉ cứu vớt được 23 người. Theo thiếu tá Trần Văn Ngà, phụ tá phát ngôn viên quân sự trong số 23 chiến sĩ khi về tới Đà Nẵng, có hai người chết là Đại úy phó hạm trưởng và một hạm viên, 21 thủy thủ còn lại có 2 người bị thương nặng".
Bộ phận thứ ba là do Hải quân Trung Cộng bắt làm tù binh, “tổng số người mất tích theo lời phát ngôn viên quân sự là 116 nhưng nhà cầm quyền Trung Cộng nói, họ chỉ cầm giữ 48 người".
Bộ phận thứ tư chính là những chiến sĩ VNCH đã bị mất tích trên biển. Tuy nhiên, có 3 vấn đề đáng lưu ý là: Hải quân Trung Quốc không bắt tất cả các chiến sĩ Hải quân VNCH mà họ có thể bắt làm tù binh; sự im lặng bất thường trong việc trao trả tù binh và sự trọng thưởng của chính quyền VNCH đối với các chiễn sĩ tham gia trận hải chiến Hoàng Sa. Ba vấn đề này có liên hệ khắng khít với nhau.
Các binh sĩ thuộc Hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ-10) sau khi bị hỏa tiễn của Hải quân Trung Cộng bắn trúng hầm chỉ huy và bị chìm, trong khi đó tàu của Hải quân Trung Cộng đi ngang qua chứng kiến tình trạng này nhưng họ không đến bắt mà bỏ đi như lời khai của các bĩnh sĩ của Hộ tống hạm này, sau khi được cứu vớt và về đến đất liền: “Chúng tôi có thể sắp bị bắt làm tù binh. Tôi ngoắc thủy thủ đoàn trên tàu của Trung Cộng, thủy thủ đoàn cũng ngoắc lại nhưng không đến cứu".
Có một câu hỏi được đặt ra là việc bắt binh sĩ VNCH làm tù binh được phát ra từ cấp có thẩm quyền cao nhất của Trung Cộng, hoặc của Chỉ huy trưởng lực lượng tham chiến tại Hoàng Sa hay chỉ là quyết định của các thuyền trưởng riêng lẻ trong lực lượng Hải quân Trung Cộng? Bởi việc có một “chỉ thị” nhất quán sẽ nói lên những hàm ý về tính chất của tranh chấp và việc giải quyết mâu thuẫn sau đó. Trên thực tế, các chiến sĩ VNCH bị bắt chủ yếu là những chiến sĩ đóng quân trên quần đảo Hoàng Sa như Địa phương quân, nhân viên khí tượng và 14 nhân viên thuộc HQ-4 đã đổ bộ lên đảo Cam Tuyền trước đó. Như vậy, Hải quân Trung Cộng không bắt các chiến sĩ trực tiếp tham chiến trên 4 tàu chiến của Hải quân VNCH làm tù binh mặc dù điều đó nằm trong tay của Hải quân Trung Cộng như trường hợp của các chiến sĩ thuộc Hộ tống hạm HQ-10.
Ngay sau khi các chiến sĩ thuộc Hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ-10) được cứu vớt và về đất liền, Ngoại trưởng VNCH lên án Trung Cộng: “Đã xâm chiếm các phần lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa và bắt đi một cách trái phép 121 binh sĩ của Quân lực VNCH, vì vậy Trung Cộng phải có nhiệm vụ trả tự do ngay cho các người này, chứ không cần phải có một thời gian nào đó thuận tiện như là Tân Hoa xã đã loan tải". Dưới áp lực về ngoại giao và tổ chức Hồng thập tự quốc tế, Trung Cộng đã tiến hành trao trả tổng số 48 tù binh, nhưng không được trao trả 1 đợt mà thành 2 đợt và tổ chức trong im lặng.
Đợt thứ nhất được trao trả vào ngày 31-01-1974 “gồm 4 chiến sĩ VNCH và 1 người Mỹ tại Shumchun thuộc biên giới tỉnh Quảng Đông và Hương Cảng". Đợt thứ hai vào ngày 17/02/1974 có “43 tù binh VNCH vừa được Trung Cộng thả hôm chủ nhật có thủy thủ Lý Chánh Hùng người Việt gốc Hoa". Trong số đó “có 13 hải quân, 23 chiến sĩ địa phương quân, 4 chiến sĩ công binh và 3 nhân viên khí tượng thuộc Đài khí tượng Hoàng Sa. Việc trao trả sẽ được diễn ra tại Tân Giới giữa Hồng Kông và Trung Hoa lục địa".
Trong đợt trao trả thứ nhất, chỉ có 5 tù binh và có người Mỹ, đồng nghĩa với việc liên quan đến quan hệ giữa Trung Cộng và Mỹ, điều này hiển nhiên sẽ tác động quyết định đến việc Trung Cộng cần trao trả càng sớm càng tốt. Trong lần trao trả thứ hai, “có thủy thủ Lý Chánh Hùng người Việt gốc Hoa. Vì anh ấy là tù binh duy nhất nói được Hoa ngữ nên anh đã làm thông dịch viên cho tù binh VNCH. Thủy thủ Lý Chánh Hùng nói rằng anh không muốn ở lại Hoa lục vì mỗi ngày anh và các đồng đội phải trải qua 3 tiếng đồng hồ tuyên truyền chính trị của Trung Cộng mặc dù Trung Cộng cho ăn uống khá”, vậy Trung Cộng cần giam giữ tù binh trong thời gian lâu hơn và có người Hoa để “tuyên truyền chính trị” nhằm xuyên tạc những sự thật lịch sử. Và, vô hình chung làm lộ rõ sự “bất chính” của Trung Cộng đối với sự kiện hải chiến tại quần đảo Hoàng Sa năm 1974.
Ngược lại, VNCH muốn “đường đường chính chính” việc trao trả tù binh phải diễn ra công khai và được báo chí xâm nhập để chính minh tính “chính nghĩa” và là một “nạn nhân” như thế nào. Việc này VNCH không thể làm theo ý mình vì việc trao trả tù binh diễn ra trên ở Trung Cộng và do họ quyết định thời gian, địa điểm. Tuy nhiên, chính quyền VNCH đã chứng minh tính “chính nghĩa” bằng cách khác là tổ chức đón tiếp các chiến sĩ tham chiến khi về Việt Nam và thưởng cho họ một cách nồng hậu, các chiến sĩ trở thành đại diện cho ý chí của Việt Nam trong việc chiến đấu để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Trước hết là đối với các chiến sĩ chiến đấu trở về nhưng không bị bắt làm tù binh, thì ngày 30-1-1974, “Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt về tới Sài Gòn và được đón tiếp trọng thể tại bến Bạch Đằng với sự tham dự của nhiều thân nhân thủy thủ đoàn. Đề đốc Trần Văn Chơn, Tư lệnh Hải quân VNCH đã trao Anh dũng Bội tinh cho Trung tá Lê Văn Thự, Hạm trưởng HQ-16 cùng một số sĩ quan, hạ sĩ quan và đoàn viên thủy thủ. Các nữ sinh cũng choàng vòng hoa chiến thắng và sau đó các thân nhân thủy thủ đoàn được mời lên thăm chiến hạm".
Đối với các tù binh được trao trả, khi về đến Sài Gòn, có “một buổi lễ tiếp đón vô cùng long trọng sẽ được Phủ TUDV phối hợp với Tổng CTCT và các Tòa Đô chánh tỉnh Gia Định, với sự tham dự các đoàn thể sinh viên học sinh của các Hội đồng dân cử, các thân hào nhân sĩ. Tổ chức ngay tại phòng khách Danh dự phi trường Tân Sơn Nhất".
Đồng thời, để “tưởng thưởng những chiến sĩ Hải quân can trường chiến đấu tại Hoàng Sa. Bộ Ngoại giao trao tặng một ngân phiếu một triệu đồng cho các thương binh và gia đình của tử sĩ Hải quân tham chiến tại Hoàng Sa ngày 19-01-1974 vừa qua…. Ngoài ra, để ghi ơn các anh hùng tử sĩ cao đậm đã ngã gục lại hải đảo Hoàng Sa trong chiến trận vừa qua, tên tuổi của một số anh hùng có thể sẽ được chính quyền chấp thuận cho đặt tên một số đường phố tại Thủ đô".
Những hành động trên của chính quyền VNCH là những phản ứng thể hiện sự đồng thuận cao giữa chính quyền - người dân và các tầng lớp khác nhau trong xã hội đối với việc bảo vệ chủ quyền một cách “chính đáng” trong bối cảnh tình hình trong nước cũng như thế giới lúc bấy giờ.
Võ Hà (tổng hợp)

Bị bắt


TT Hồng: Hôm sau tất cả đám tù binh gồm 49 người, tính luôn cả anh Kosh người Mỹ; trong đó có 23 chiến sĩ Địa Phương Quân, 6 người toán chúng tôi, 5 nhân viên Khí tượng và 14 quân nhân Hải quân, có thêm một sĩ quan nữa là HQ. Trung úy Nguyễn Văn Dũng.

11h10, ba chiến hạm của Hải quân Việt Nam Cộng hòa buộc phải rút khi lực lượng tăng viện Hạm đội Nam Hải của Trung Quốc nhập vùng (tàu hộ tống 281, 282 đến nơi sớm nhất, khoảng 30 phút sau khi Hải quân Việt Nam Cộng hòa rút). 15 nhân viên cơ hữu thuộc HQ16 bị kẹt lại đảo Vĩnh Lạc, 15 nhân viên cơ hữu thuộc HQ4 bị kẹt lại Cam Tuyền, các đảo của Việt Nam chỉ còn lực lượng quân đội trú phòng vệ, không còn hải pháo yểm trợ. 

Đợt thứ nhất được trao trả vào ngày 31-01-1974 “gồm 4 chiến sĩ VNCH và 1 người Mỹ tại Shumchun thuộc biên giới tỉnh Quảng Đông và Hương Cảng". Đợt thứ hai vào ngày 17/02/1974 có “43 tù binh VNCH vừa được Trung Cộng thả hôm chủ nhật có thủy thủ Lý Chánh Hùng người Việt gốc Hoa". Trong số đó “có 13 hải quân, 23 chiến sĩ địa phương quân, 4 chiến sĩ công binh và 3 nhân viên khí tượng thuộc Đài khí tượng Hoàng Sa.

Kết thúc trận hải chiến, phía VNCH có 19 quân nhân hy sinh hoặc mất tích, 35 quân nhân bị thương, 44 quân nhân bị TQ bắt trên đảo Hoàng Sa (Pattle) và đảo Hữu Nhật (Robert).
Ngay trong ngày 20.1, BTL Hải quân đã đề nghị Bộ Tổng Tham mưu yêu cầu hội Chữ Thập Đỏ quốc tế can thiệp với TQ trao trả các tù binh do TQ bắt giữ. Kết quả, phía TQ đã trao trả 48 quân nhân vào 2 đợt.
Đợt 1 gồm 5 quân nhân bị thương vào 31.1.1974 và đợt 2 gồm 43 quân nhân vào ngày 17.2.1974).

Chốt lại
TQ trao trả tù binh VNCH là 48 người và 1 người Mỹ qua ngả Hong Kong
Ngày 31/1 =   6 người
Ngày 17/2 = 43 người
Trong đó:
- 14 quân nhân cơ hữu tàu HQ-4
- 25 quân nhân Địa phương quân
- 5 quân nhân thuộc Quân đoàn I & Công binh
- 4 nhân viên Khí tượng
- 1 người Mỹ tên Gerald Emile Kosh
14 người bị bắt tại đảo Cam Tuyền (Hữu Nhật), số còn lại bị bắt tại đảo Hoàng Sa

Đánh giá, bình luận chung


Năm 1972, quân đội NDVN mở những chiến dịch lớn tuy không đạt mục tiêu như ý trên chiến trường nhưng đã làm quân đội VNCH và Mỹ đối phó căng thẳng và nó cho thấy sự trổi dậy mạnh mẽ của đối phương.
Năm 1973, VNCH tập trung chiến lấn chiếm lãnh thổ và dân cư trên toàn Miền Nam.
Sự kiện Hoàng Sa 1974 diễn ra trong bối cảnh Mỹ rút quân khỏ Việt Nam, Hạm đội 7 thu dần đội hình, không còn kiểm soát chặt Biển Đông như trước. Quốc hội Mỹ cắt giảm viện trợ cho chế độ VNCH, quân đội VNCH xuống tinh thần, trong khi đó quân đội NDVN ngày càng lớn mạnh, vây ép đối phương trên nhiều hướng. ưu thế trên chiến trường đã nghiêng dần sang phía Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Từ năm 1974, Bộ Chính trị Đảng CSVN hạ quyết tâm giải phóng Miền Nam, cho thấy sự sụp đổ của chế độ VNCH chỉ còn là vấn đề thời gian.
Tuy VNCH có quan tâm phần nào đến chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa nhưng việc giữ chân đứng trong đất liền mới là vấn đề sống chết của chế độ. Trung Quốc đã nắm lấy cơ hội Mỹ rút, VNCH đang lâm nguy và VNDCCH đang đồn sức hạ đối phương để thôn tính cụm đảo Lưới Liềm, chiếm trọn quần đảo Hoàng Sa.
Nói về tương quan lực lượng, VHCH có phần trội hiện đại hơn TQ về phương tiện hải - không quân , ngược lại TQ hơn VNCH về số lượng tàu chiến. Cả hai bên chưa từng hải chiến nhưng hải quân VNCH có kinh nghiệm trận mạc trong việc chặn ghe tàu trên biển từ Bắc xâm nhập tiếp tế vào Nam và tác chiến hổ trợ quân bộ trên các sông ngòi, của biển, Hải quân TQ chỉ diến tập, chưa từng đánh nhau với đối thủ nào. Tinh thần quân sĩ hai bên có thể là ngang ngửa nhau, VNCH tự tin ở kinh nghiệm và phương tiện, mơ hồ về lực lượng tiếp viện. TQ có tâm lý bành trướng, tự tin là quân cường quốc và phía sau sẽ có quân hổ trợ.

Âm mưu và kế hoạch thôn tính Hoàng Sa của TQ?

Vấn đề đặt ra là âm mưu thôn tính trọn quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam có từ khi nào?
Âm mưu và lên kế hoạch thực sự từ khi nào, Mỹ, VNCH, VNDCCH biết đến đâu?


Qua những gì được tiết lộ từ phía TQ tuy còn hạn chế nhưng cũng cho ta hình dung:


Hồ sơ ngoại giao Mỹ về Hải chiến Hoàng Sa - Kỳ 3: Toan tính của Trung Quốc
08/01/2014 18:40

(TNO) Những toan tính chiến lược của Trung Quốc trong việc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa đã được ủ mưu từ lâu, theo nhận định từ hồ sơ ngoại giao được giải mật của Mỹ.

Chuyên đề: 40 năm hải chiến Hoàng Sa
Toan tính của Trung Quốc
Trung Quốc đã ủ mưu đánh chiếm cụm Lưỡi Liềm tại Hoàng Sa từ lâu

Đề cương HCHS (II)

Lời nói đầu

I. Đặc điểm, địa lý và tầm quan trọng của quần đảo
- Tổng quan
- Đặc điểm, địa lý
(tập trung chủ yếu nơi xảy ra trận đánh)
- Tầm quan trọng

II. Việt Nam xác lập chủ quyền và lịch sử tranh chấp
(những nốc thời gian quan trọng)
- Chủ quyền Việt Nam thời Nhà Nguyễn
- Chủ quyền Việt Nam thời Pháp thuộc
- Chủ quyền Việt Nam thời VNCH trực tiếp quản lý
- Lập trường và yêu sách của Trung Quốc

III. Cục diện quốc tế và bối cảnh liên quan
- Cục diện chung
- Mỹ
- Nga
- Trung Quốc
- VNDCCH
- VNCH

III. Diễn biến trận hải chiến
- Ý đồ và động thái quân sự
- Tương quan lực lượng 
- Diễn biến trước hải chiến
- Diễn biến trong hải chiến
- Diễn biến sau hải chiến

IV. Tổn thất đôi bên và đánh giá
- Theo tài liệu Quân đội Việt Nam Cộng Hòa
- Theo tài liệu Quân đội PLA Trung Quốc

V. Nhận định, đánh giá thông tin 
- Thông tin mâu thuẩn về kết quả trận chiến giữa VNCH và PLA
- Góc nhìn và nhận thức khác nhau giữa các chỉ huy cùng binh lính VNCH
- Vấn đề tồn tại và còn chưa rõ

Đề cương HCHS (I)

I – Thực trạng, mục tiêu, phương pháp
-         Thực trạng: hơn 50 năm sau Hải Chiến Hoàng Sa trong ngoài nước có nhiều thông tin bài viết về cuộc hải chiến này. Ở trong nước chủ yếu là các bài báo, ở hải ngoại thông tin nhiều hơn có những công trình biên soạn công phu. Tuy nhiên các tài liệu này còn quan phương theo góc nhìn cá nhân hoặc từng nhóm nghiên cứu, có những nội dung mâu thuẩn nhau về tình tiết của trận chiến, về quan điểm đánh giá quan hệ nhân quả của trận chiến…. Người đọc nhất là thế hệ trẻ thiếu cái nhìn tổng thể có hệ thống, đa chiều về trận chiến này
-         Mục tiêu: mong muốn của người biên soạn là góp phần hệ thống những thông tin, giúp người đọc có cái nhìn vừa cụ thể, vừa bao quát về cuộc chiến này ở quan hệ của hai bên tranh chấp và cả bối cảnh quốc tế. Những diễn biến trước, trong và sau trận chiến cùng những hệ lụy của nó.
Điều rõ ràng nhất của cuộc chiến là tinh thần quả cảm hy sinh, xã thân bảo vệ chủ quyền đất nước của những người Việt Nam trước sự xâm lược của ngoại bang, cần khắc họa, tôn vinh những tử sĩ đã dũng cảm hy sinh anh dũng như : Lê Văn Tây, Ngụy Văn Thà, Nguyễn Thành Trí, Lê Văn Đơn….
-         Phương pháp: Tập hợp, biên khảo đối chiếu từ các nguồn tư liệu hiện có thành bức tranh tổng thể và cụ thể, đồng thơi phân tích, so sánh góp phần lý giải những mâu thuẩn trong các nguồn tư liệu về diễn biến trận chiến cũng như quan điểm đánh giá.
II -   Đề cương
Lời nói đầu của người biên soạn

Phần 1: Khái quát về đặc điểm, vị trí địa lý quần đảo Hoàng Sa
Phần 2: Việt Nam xác lập chủ quyền và khai thác sử dụng quần đảo Hoàng Sa liên tục từ lâu đời:
-         Thời phong kiến: nhà Nguyễn xác lập chủ quyền, tổ chức quản lý, khai thác tài nguyên, các quan hệ đối ngoại có liên quan đến Hoàng Sa.
-         Thời Pháp thuộc: các động thái của chính quyền Pháp đối với Hoàng Sa, các quan hệ giao thương quốc tế có liên quan đến Hoàng Sa
-         Thời chính phủ Quốc Gia Việt Nam và Việt Nam Cộng Hòa: Việc tiếp nhận chuyển giao quyền quản lý. Hội nghị Sanfrancisco. Thiết lập tổ chức và thực thi bảo vệ chủ quyền, khai thác và sử dụng hòa bình.

Lời nói đầu

Ngày 19/1/1974 đã diễn ra một cuộc hải chiến giữa Việt Nam Cộng hoà (VNCH) và Trung Quốc, VNCH thua trận, rút lui, từ đó toàn bộ quần đảo Hoàng Sa rơi vào tay Trung Quốc. Sự việc đã lâu, trong bối cảnh quân đội VNCH bắt đầu suy yếu trước QĐNDVN, sau đó chính thể VNCH sụp đổ nên nguồn tư liệu chính thức của chế độ cũ không có, về phía Trung Quốc chưa giải mật cuộc chiến. Thực tế cuộc chiến diễn ra thế nào, những gì người Việt biết được là qua hồi ức của những người trong cuộc, sĩ quan hạ sĩ quan trên các tàu tham chiến của VNCH kể lại, một phần nào đó là từ phía những người tham chiến của Trung Quốc.

Tuy cùng một trận đánh nhưng góc nhìn có khác nhau là điều tất nhiên không thể tránh khỏi do do hạn chế nhất định trên từng hướng, ở từng cương vị, nhiệm vụ khác nhau, dẫn đến chủ quan trong đánh giá sự việc cho nên nhiều thông tin mẫu thuẫn, thậm chí đối lập lẫn nhau.
Không thể tránh né vấn đề thường xảy ra ở mọi cấp chỉ huy (không chỉ có ở quân đội VNCH) là thắng thì thổi phồng thành tích, thua bao biện sai lầm, tại thế này thế khác...
Gì thì gì, bao liệt sĩ bỏ mình, lãnh thổ di sản của cha ông để lại đã mất, đó là một thất bại chua cay của Việt Nam. Chuyên đề này tuy tập trung về mặt tác chiến nhưng không phải là khảo luận quân sự, người biên soạn không thể kiểm chứng đánh giá nguồn tin, thiếu kiến thức hải quân, nên trong năng lực có hạn chỉ mổ xẻ làm sáng tỏ khúc mắc với hy vọng cung cấp cho bạn đọc cái nhìn khái quát hơn và rõ thêm các vấn đề gây tranh luận.

Tư liệu thu thập theo ý tưởng những mảnh ghép, lấy từ nhiều nguồn trên mạng phát tán công khai nên khó thể xác định đâu là trang gốc, mong các tác giả sách, bài viết và chủ trang bỏ quá, chân thành cảm ơn. Nếu có những bình luận nhận xét không đúng sự thật, đụng chạm đến danh dự của ai đó người trong cuộc mong được lượng thứ, xin cho ý kiến dẫn chứng...
Mong những ai quan tâm đến sự kiện này đóng góp để tiếp cận gần hơn theo sự thật đã từng xảy ra.

Vì trận hải chiến xảy ra thời VNCH và nhân chứng kể là binh lính thời đó nên bình luận, nhận xét của người biên soạn tư liệu giữ nguyên cách gọi địa danh, từ ngữ quân sự thời đó để độc giả tiện theo dõi câu chuyện. 

Thứ Sáu, 8 tháng 5, 2015

Những hành động bất lợi của VNDCCH đối với chủ quyền Biển Đông

Saturday, May 25, 2013

Trong các bài bàn luận về việc đổi tên nước tôi có nêu ý kiến cho rằng không nên lấy lại tên nước là VNDCCH. Một trong những lí do nêu lên là kể từ ngày bắt đầu sử dụng cho đên khi được thay bằng tên CHXHCNVN, Nhà nước VN với tên gọi là VNDCCH chưa từng chính thức khẳng định chủ quyền đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà lại còn có những hành động không có lợi về mặt chủ quyền ở biển Đông.  Trong bài post này, tôi xin trích dịch tài liệu của Bộ Ngoại Giao TQ công bố ngày 30/1/1980 về cái gọi là 'chủ quyền không tranh cãi' của họ đối với HS và TS (TL bằng tiếng Anh của họ có ở nhiều TV lớn trên thế giới nhưng hình như họ không còn lưu trên mạng, bạn đọc nào biết tiếng Trung có thể tìm đọc ở đây), phần TQ tố cáo các hành động thất lợi này. Ông Lưu Văn Lơi, nguyên trợ lí Bộ trường Ngoại giao có viết phản biện (nhưng chưa thật thuyết phục) trong cuốn sách "
Cuộc tranh chấp Việt - Trung về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa", nxb CA in năm 1995.
 có thể đọc online ở đây.
Bản tiếng Anh TL của BNG TQ chúng tôi có được từ thư viện Quốc Gia Úc (Canberra) có tựa: China's Indisputable Sovereignty over the Xisha and Nansha Islands. Foreign Language Press, Beijing, 30/1/80.
Lưu ý rằng lập trường TQ hiện nay là không có tranh chấp ở HS (dù CP Việt luôn nằng nì là có tranh chấp)  vị họ đã chiếm trọn quần đảo này từ năm 1974 từ VNCH. Vì vậy, có lẽ họ thấy không cần tranh thủ dư luận quốc tế thêm nữa. Hơn nữa, trong tài liệu này có một vài điều làm lộ rõ sự man trá của họ. Chẳng hạn, vụ Guo Shoujing (Quách Thủ Kính) thời nhà Nguyên đo đạt thiên văn ở phía nam Châu Nhai năm 1279. Trong TL này thì họ cho là Quách Thủ Kính đo ở HS, nhưng mới đây khi tranh chấp Scarborough với Philippines thì họ lại nói chỗ QTK tới đo là bãi cạn này (từ các chi tiết trong sử sách cũ chỉ cho phép suy được duy nhất độ vĩ thôi - không biết được độ kinh). Có thể vì 2 lí do này mà họ không muốn đưa TL bằng tiếng Anh trên mạng.
Cũng lưu ý trong phần trích dịch này chúng tôi giữ nguyên các tên đảo theo cách gọi của TQ cho khớp với giọng điệu của họ.


=========================================================================

CHỦ QUYỀN KHÔNG TRANH CÃI CỦA TRUNG QUỐC ĐỐI VỚI HAI QUẦN ĐẢO TÂY SA VÀ NAM SA

(Tài liệu của Bộ ngoại giao nước CHNHTH - 30/01/1980)

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 


(4) SỰ MAN TRÁ CỦA CHÍNH QUYỀN VIỆT NAM(*)

Cần phải chỉ ra rằng trước đây không hề có tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam về quyền sở hữu quần đảo quần đảo Tây Sa (VN gọi là Hoàng Sa -ND) và Nam Sa (Trường Sa - ND). Trong một thời gian dài, dù trong các tuyên bố và các công hàm của chính phủ, hay trong sách báo, tạp chí, bản đồ và sách giáo khoa, phía Việt Nam đều chính thức thừa nhận hai quần đảo này là lãnh thổ Trung Quốc từ thời xa xưa.

Ngày 15 tháng 6 năm 1956 Thứ trưởng Ngoại giao Ung Văn Khiêm của VNDCCH tiếp Đại biện lâm thời của Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam Lí Chí Dân (Li Zhimin) có nói với ông rằng, “theo dữ liệu của Việt Nam, quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa về mặt lịch sử là một phần lãnh thổ của Trung Quốc”. Lê Lộc, Quyền Vụ trưởng Vụ châu Á của Bộ Ngoại giao Việt Nam, có mặt trong buổi tiếp, đặc biệt nêu ra dữ liệu của Việt Nam và chỉ ra rằng, "xét về mặt lịch sử thì các quần đảo này đã là một phần của Trung Quốc vào thời nhà Tống".

Trong tuyên bố ngày 04 tháng chín năm 1958, Chính phủ nước CHNDTH tuyên bố bề rộng của lãnh hải của nước CHNDTH là mười hai hải lí và quy định rõ ràng rằng "quy định này áp dụng cho tất cả các vùng lãnh thổ của CHNDTH, bao gồm. . . quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc ". Ngày 06 tháng 9 năm 1958 báo Nhân Dân, cơ quan Trung ương của Đảng Lao động Việt Nam, in nổi bật trên trang nhất các chi tiết của Tuyên bố của Chính phủ Trung Quốc. Bài báo viết: "Vào ngày 04 tháng 9 năm 1958 Chính phủ CHNDTH đã ra Tuyên bố về lãnh hải của Trung Quốc. Tuyên bố này quy định rằng chiều rộng của lãnh hải Trung Quốc là mười hai hải lí (hơn 22 km). Quy định này áp dụng cho mọi vùng lãnh thổ của nước CHNDTH bao gồm cả lục địa Trung Hoa và các đảo ven bờ, cũng như Đài Loan và các đảo xung quanh, quần đảo Bành Hồ (Penghu), quần đảo Ðông Sa (Pratas), quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa (Maclesfield), quần đảo Nam Sa và tất cả các đảo khác thuộc Trung Quốc ngăn cách với đất liền và các đảo ven bờ bởi các vùng biển công(biển quốc tế).” Ngày 14 tháng 9 cùng năm, Thủ tướng Phạm Văn Ðồng của phía Chính phủ Việt Nam long trọng tuyên bố trong công hàm gửi cho Thủ tướng Quốc Vụ Viện TQ Chu Ân Lai rằng "Chính phủ nước Việt-nam Dân chủ Cộng hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của chính phủ nước Cộng hoà dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc.", và rằng "Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy". Công hàm của Phạm Văn Đồng cho thấy rõ ràng rằng Chính phủ Việt Nam thừa nhận hai quần đảoTây Sa và Nam Sa là lãnh thổ của Trung Quốc (xem phụ lục 4).

Trong tuyên bố ngày 09 tháng năm 1965 về việc CP Mĩ quy định "vùng chiến sự" cho lực lượng của họ tại Việt Nam, Chính phủ nước VNDCCH nêu rằng đó là "một mối đe dọa trực tiếp đến an ninh của nước VNDCCH và các nước láng giềng" vì "Tổng thống Mĩ Lyndon Johnson đã chỉ định toàn bộ Việt Nam và các vùng biển liền kề kéo dài từ bờ biển của Việt Nam ra khoảng 100 km và một phần của lãnh hải của CHNDTH trong quần đảo Tây Sa của TQ làm "vùng chiến sự" của lực lượng vũ trang Hoa Kì". Ở đây, Chính phủ Việt Nam một lần nữa đã công nhận rõ ràng quần đảo Tây Sa là một phần lãnh thổ của Trung Quốc.

Khi tường thuật việc nước ngoài xâm nhập quần đảo Tây Sa, báo chí Việt Nam cũng rõ ràng thừa nhận những đảo này là thuộc về Trung Quốc. Ví dụ,  báo Nhân Dân ngày 13 tháng 5 năm 1969 viết "ngày 10 tháng 1 máy bay quân sự Hoa Ki xâm phạm không phận của Trung Quốc trên đảo Vĩnh Hưng (Yongxing dao) và đảo Đông (Dongdao) của quần đảo Tây Sa thuộc tỉnh Quảng Đông của Trung Quốc." Nhiều bài báo tương tự đã được thực hiện trên báo chí Việt Nam.

Bản đồ chính thức và sách giáo khoa của Việt Nam cũng rõ ràng thừa nhận quần đảo Tây Sa và Nam Sa là lãnh thổ của Trung Quốc. Ví dụ, Bản đồ thế giới do Cục Bản đồ của Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam thực hiện năm 1960 ghi hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa theo tên Trung Quốc và ghi chú trong ngoặc rằng chúng thuộc về Trung Quốc. Tập Bản đồ thế giới do của Cục Đo đạc và Bản đồ thuộc Phủ Thủ tướngViệt Nam xuất bản tháng 5 năm 1972  cũng ghi quần đảo Tây Sa và Nam Sa theo tên Trung Quốc của họ (xem phụ lục 5). Một ví dụ khác là bài học mang tên "CHNDTH" trong sách giáo khoa địa lí cho học sinh lớp 9 do nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam phát hành năm 1974 có ghi như sau: "Chuỗi đảo từ quần đảo Nam Sa và Tây Sa đến đảo Hải Nam, đảo Đài Loan, quần đảo Bành Hồ và quần đảo Chu Sơn. . . có hình dáng như một cánh cung tạo thành một bức tường thành bảo vệ lục địa Trung Quốc."

Người Việt Nam nhấn mạnh ở mức nghiêm túc rõ ràng rằng để thiết lập chủ quyền lãnh thổ cần phải trình ra "các tài liệu nhà nước chính thức" và "các văn bản có hiệu lực pháp lí". Những gì mà chúng tôi nêu ra ở trên đúng là "các tài liệu nhà nước chính thức" và "các băn bản có hiệu lực pháp lí" của Việt Nam. Điều này cho thấy rõ ràng rằng cho đến năm 1974, Chính phủ Việt Nam vẫn còn công nhận hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa là lãnh thổ Trung Quốc. Bây giờ, chính quyền Việt Nam đã nuốt lời và man trá quay đi khỏi lập trường ban đầu của họ về việc công nhận quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa là lãnh thổ Trung Quốc, và điều này là một cái gì đó hoàn toàn không được phép làm theo luật quốc tế.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . ____________________________________________________________(*) Ngày 17/11/2000 để biện bạch chủ quyền của họ ở Trường Sa, BNG TQcũng lập lại gần y nguyên các sự việc này trong tài liệu "International Recognition Of China's Sovereignty Over the Nansha Islands".
Phụ lục 4: Công hàm Phạm Văn Đồng 14/9/1958
Phụ lục 5: Bản đồ thế giới tháng 5/1972





Thứ Bảy, 11 tháng 4, 2015

Ý đồ của Trung Quốc, kế hoạch hành quân TQ và VN

Âm mưu và kế hoạch thôn tính Hoàng Sa của TQ?

Vấn đề đặt ra là âm mưu và kế hoạch của TQ thôn tính trọn quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam có từ khi nào và phía VNCH đã có những động thái phản ứng như thế nào?

Theo Hiệp định Genève,
Tháng 4/1956, quân Pháp phải rút lui khỏi Việt Nam, để lại khoảng trống bố phòng ở Biển Đông.
Tháng 8/1956, Việt Nam cộng hòa chiếm đóng kiểm soát các đảo phía Tây, Trung Quốc chiếm đóng kiểm soát các đảo phía Đông của quần đảo Hoàng Sa. Theo TQ thì 17 tháng 3 năm 1959, căn cứ vào chỉ thị của Chủ tịch Mao, bộ đội hải quân, chiến hạm nước ta đã đến vùng biển Tây Sa.
Tháng 2/1959, Trung Quốc dùng 60 và 5 ghe ngư dân bí mật xâm nhập làm nhà, cắm cờ trên đảo Quang Hòa nhưng âm mưu không thành công, bị đại đội Thủy quân Lục chiến VNCH đồn trú phát hiện bắt áp giải về giam tại Đà Nẵng, sau đó trao trả cho TQ.
Những năm tiếp theo sau đó, thỉnh thoảng hai bên đấu tranh ngoại giao qua những tuyên bố và văn bản hành chính thể hiện chủ quyền thuộc về nước mình, hầu như không có va chạm đáng kể trên thực địa.
Trước tháng 1/1974, theo những nhân chứng binh lính VNCH đồn trú ở Hoàng Sa tường thuật đã có vài lần ngư dân TQ ghé vào đảo với lý do gặp nạn hoặc thăm viếng giao lưu, sau khi hải chiến xảy ra họ mới chợt nghĩ ra: đó chính là binh lính TQ giả dạng ngư dân để trinh sát.

TQ sau 10 năm hổn loạn do Cách mạng Văn hóa

Xuất phát,
Theo báo Thanh niên dẫn lại từ báo chí Trung Quốc,
"Từ năm 1972, Tổng thống Mỹ Richard Nixon do muốn giành thắng lợi ở cuộc bầu cử, đã quyết định rút hết quân khỏi miền Nam Việt Nam. Trước khi rút, Nixon đã ra lệnh để lại thiết bị quân sự tối tân cho Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu, coi như chút trách nhiệm cuối cùng dành cho đồng minh thân thiết. Lúc đó hải quân miền Nam Việt Nam được trang bị hơn 10 tàu chiến tối tân của Mỹ với các trang thiết bị vượt xa hạm đội Nam Hải của Trung Quốc. Vì vậy ông Thiệu đã không hề sợ hãi Trung Quốc.
Báo chí đại lục cho rằng từ tháng 8.1973, chính quyền miền Nam Việt Nam đã cử nhiều binh lính tới đóng tại nhiều đảo và rạn san hô của quần đảo Trường Sa. Còn tại quần đảo Hoàng Sa, Việt Nam Cộng Hòa đóng quân trên hòn đảo có cùng tên gọi (Hoàng Sa).
Mao Trạch Đông sớm phán đoán tình hình trên, nên đầu năm 1972, đã hạ lệnh triệu tập 3 bộ (gồm: Bộ Quốc Phòng, Bộ Ngoại giao, Bộ Giao thông) và 4 bên (gồm quân khu Quảng Châu, Hải quân, Cục thông tin Bộ Ngoại giao, Cục Thủy sản Bộ giao thông) cùng nhóm họp để giải quyết vấn đề mà phía Trung Quốc gọi là “phòng bị cho Hoàng Sa”. Tất cả các bộ ngành trên đều có mối liên quan mật thiết tới vấn đề Hoàng Sa.
Mao Trạch Đông đã yêu cầu “phòng ngự Hoàng Sa phải đạt tiêu chuẩn cao, theo kiểu một pháo đài bất khả xâm phạm mình đồng da sắt”. Một quyết định quan trọng trong cuộc họp được đưa ra là việc xây dựng trên đảo Phú Lâm (phía Trung Quốc gọi là đảo Vĩnh Hưng) thuộc Hoàng Sa của Việt Nam cơ sở hạ tầng để có thể đón tàu hàng ngàn tấn và máy bay phản lực, đồng thời huy động 74 đại đội tàu săn ngầm, tàu đổ bộ tới đóng ở đây, để đảo Phú Lâm được xây dựng thành một cứ điểm quan trọng trong quần đảo Hoàng Sa.
Trung Quốc cũng phái nhiều ngư dân, dân binh đánh đuổi đội lính Việt Nam ở đảo Hoàng Sa. Tuy nhiên, tới đầu năm 1974, sự việc này vẫn chưa giải quyết xong toàn bộ. Việc điều động 74 đại đội và tấn công Hoàng Sa vẫn chưa có kết quả.



Bắt đầu,
 
Cuối tháng 12/1973, Công ty đánh bắt hải sản Nam Hải cử một đội 2 tàu cá có vũ trang 402, 407 và 97 ngư dân TQ dưới sự lãnh dạo của Phó giám đốc vào đánh cá ở vùng biển nhóm đảo Nguyệt Thiềm, tập trung chính ở đảo Quang Hòa, cùng đi có nhóm hậu cần.
Ngày 10/1/1974, Một nhóm ngư dân TQ lên đảo Cam Tuyền cắm cờ và bảng gỗ chứng tỏ chủ quyền TQ.
Ngày 11/1/1974, Trung Quốc tuyên bố phản đối VNCH và khẳng định lại các yêu sách của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngày 12/1/1974, Chính phủ VNCH tuyên bố bác bỏ yêu sách của Trung Quốc.
Cũng theo báo Thanh niên:
"Mãi tới ngày 14.1.1974, căn cứ Ngọc Lâm mới lần đầu tiên thu thập được thông tin về tình hình Hoàng Sa thông qua kênh chính thống. Cũng ngày đó, hạm đội Nam Hải nhận được tin báo rằng tàu chiến của quân đội miền Nam Việt Nam đang hoạt động về phía đông ở vịnh Cam Ranh và thành phố Đà Nẵng, có khả năng sẽ tới Hoàng Sa, nên lệnh cho căn cứ Ngọc Lâm tổ chức một chuyến tuần tra Hoàng Sa, cùng các tàu đánh cá đối phó với quân đội miền Nam Việt Nam.
Lúc này, lãnh đạo của căn cứ hải quân Ngọc Lâm và các cấp đang ở Trạm Giang để tham gia hội nghị tập huấn quân sự thường niên của Hạm đội Nam Hải. Chỉ có phó tư lệnh căn cứ Ngọc Lâm là Ngụy Minh Sâm và Hồ Sinh Huy đều ở lại căn cứ. Độ nhạy bén nghề nghiệp đã khiến hai người sớm đánh hơi thấy mùi chiến tranh tiềm ẩn. Vì vậy công tác chuẩn bị đã được triển khai, hai người sớm phân chia trách nhiệm, họ Ngụy sẽ ra biển chỉ huy, họ Hồ sẽ ở nhà giữ căn cứ.
Năm 1974, lực lượng của hạm đội Nam Hải còn rất mỏng tới mức có thể coi là nghèo nàn. Căn cứ hải quân Ngọc Lâm và cũng là toàn đội tàu chỉ có 4 tàu hộ tống có sức chiến đấu nhất. Con tàu Nam Ninh đã bị hư hỏng nặng đang phải sửa chữa tại Quảng Châu. Ba tàu hộ tống loại mới khác (mang số hiệu 214, 231, 232) có pháo 65 ly, do gặp sự cố hỏng hóc tại các bộ phận như bếp, đài phát thanh, thiết bị truyền tin… cũng đã định ngày chuẩn bị quay về xưởng sửa chữa. Các tàu chiến còn lại, tàu phóng ngư lôi trọng tải nhỏ, phạm vi trên biển rất hạn chế, khó có thể tác chiến ngoài khơi xa. Như vậy họ Ngụy chỉ còn trong tay 6 tàu săn ngầm lớp 6604, mà lúc bấy giờ đang chuẩn bị “về hưu” và được thay bởi tàu săn ngầm mới lớp 037. Các tàu 6604 vốn chỉ được giữ lại để luyện tập.
Thế rồi vào thời khắc đó, cuộc đời chúng bị đổi ngoặt. Hải quân Trung Quốc đã lựa ra 2 chiếc tàu săn ngầm có tình trạng tốt nhất, dồn hết thiết bị còn tốt lại rồi ráp vào hai tàu mang số hiệu 271 và 274 để tới tham gia trận đánh tại Hoàng Sa."

 
Ngày 14/1/1974, Hạm đội 77 Tây Sa yêu cầu Căn cứ hải quân Ngọc Lâm (Quảng Tây) tổ chức một cuộc tuần tra Tây Sa - đây là sự kiện mới kể từ tháng 3 năm 1959.

Ngày 15/1/1974, Tàu cá vũ trang 903 chở thêm ngư dân vào đảo Cam Tuyền.

Hai chiếc tàu cá vũ trang 402 và 407 đã được các chiến hạm VNCH nhận dạng từ ngày 16/1 và theo Gerald E.Kosh  - "Có bằng chứng cho thấy sớm nhất là vào khoảng trung tuần tháng 12 - và có thể trước đó vào khoảng tháng 9 - TC đã tích cực huấn luyện lực lượng tấn công của họ cho cuộc hành quân vào ngày 20 tháng 1 năm 1974. Trong thời gian 10 ngày, khoảng hạ tuần tháng 12, 6 tàu đánh cá (loại tàu đánh cá NanYu mang số 401, 402, 405, 406, 407 và 408) đã được quan sát hoạt động từ hải cảng và cũng là căn cứ hải quân Bắc Hải (Quảng Đông). Những tàu đánh cá hoạt động từng cặp rời hải cảng vào mỗi buổi sáng và trở về vào mỗi buổi chiều. "
---------
Mốc thời gian và hoạt động của lực lượng TQ nói trên là theo phía tài liệu TQ, không có ghi nhận từ phía VNCH. Đây là một động thái đáng ngờ, tần suất hoạt động của lực lương TQ tăng lên nhưng không có tin nào cho thấy quân VNCH đã biết trước hoặc nghi ngờ. Khi được tàu HQ-16 báo về Bộ tư lệnh ở đất liền, tuy phía VNCH có cảnh giác nhưng không nghĩ rằng TQ dùng mặt trận  ngoại giao mở đường cho hoạt động quân sự tiếp theo - Đó là bước đầu của kế hoạch lấn chiếm.
Trước 15/1/1974, Trung Quốc âm thầm triển khai một số tàu dưới hình thức tàu đánh cá bí mật xâm nhập, đổ bộ lực lượng bán vũ trang lên các đảo mà quân VNCH không đồn trú để cắm cờ, xây nhà tạm...Đến 16/1/1974, Tàu HQ-16 làm nhiệm vụ theo định kỳ chở trung đội Đại phương để thay quân đồn trú và toán công binh khảo sát làm sân bay ở đảo Hoàng Sa thì tình cờ phát hiện sự có mặt bất thường của lực lượng TQ ở nhóm đảo Nguyệt Thiềm, báo cáo về Bộ Tư lệnh Hải quân...

Về phía Trung Quốc, qua tài liệu được tiết lộ qua Dương Danh Dy dịch, tuy còn hạn chế về thông tin nhưng cũng cho ta hình dung. Trương Vĩ Văn viết:
Một ngày tháng 1 năm 1974. Đã 10 giờ sáng, nhưng Mao Trạch Đông vẫn chưa ngủ dậy. Lúc đó một báo cáo được đặt hết sức cẩn thận lên chiếc kệ đầu giường ông. Báo cáo này do Chu Ân Lai, Thủ tướng Quốc Vụ viện, Diệp Kiếm Anh, Phó chủ tịch Quân ủy TW đưa tới. Báo cáo nêu: trong thời gian gần đây sự kiện quân đội Nam Việt xâm phạm chủ quyền nước ta tại vùng biển quần đảo Vĩnh Lạc tại Tây Sa càng ngày càng dữ dội…, đồng thời nhằm thẳng vào hành vi xâm lược của quân đội Nam Việt, báo cáo đã đề xuất đối sách nên áp dụng, tức thông qua tăng cường tuần tra và các biện pháp quân sự tương ứng, bảo vệ quần đảo Tây Sa.

Sau khi ngủ dậy, Mao Trạch Đông đọc qua báo cáo rồi chìm sâu vào trong hồi ức và suy nghĩ sâu xa. Ông khá quen thuộc tình hình quần đảo Tây Sa, như nắm trong lòng bàn tay mọi động hướng tại Tây Sa của quân đội Nam Việt trong mấy năm gần đây"


Chính phủ Trung Quốc đưa ra loại phản ứng như thế nào, đều có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với việc ngăn chặn các loại chủ nghĩa bá quyền và chủ nghĩa bành trướng của nhà đương cục Nam Việt và các nước xung quanh nước ta, bảo vệ hòa bình và an ninh vùng châu Á, Thái Bình Dương và ổn định cục diện thế giới.
Nghĩ đến những điều đó, Mao Trạch Đông cầm lấy bút, trịnh trọng phê hai chữ :đồng ý, vào báo cáo do Chu Ân Lai và Diệp Kiếm Anh trình, rồi, tự nói với mình: “xem ra không đánh một trận, không thể bảo vệ quyền lợi hải dương của Trung Quốc! Ý kiến của Ân Lai, Kiếm Anh rất đúng!”
Sau khi Mao Trạch Đông đưa ra quyết sách, Chu Ân Lai và lãnh đạo quân ủy lập tức chế định phương án tác chiến, điều động và bố trí binh lực, một cuộc chiến tranh chính nghĩa bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ tôn nghiêm và thần thánh của Tổ quốc lặng lẽ kéo màn.


Đứng trước hành động khiêu chiến leo thang từng bước của quân đội Nam Việt, sau khi được Mao Trạch Đông phê đồng ý, ngay trong ngày 17 tháng 1, bộ đội, Hạm đội Nam Hải của ta đang chấp hành nhiệm vụ tuần tra tại vùng biển Nam Hải Trung Quốc, tuân theo mệnh lệnh của Quân ủy trung ương đã hiệp đồng với dân quân vũ trang do quân khu Hải Nam cử ra, cùng tiến vào đóng tại ba đảo Tấn Liễu, Thâm Hàng và Quảng Kim của quần đảo Tây Sa.
Cùng với việc này, Thủ tướng Chu Ân Lai cũng bắt đầu bận rộn căng thẳng: trước hết, thân tự gọi điện cho Cục Tác chiến, hỏi tường tận tình hình quần đảo Tây Sa và điều kiện khi không có công sự; tiếp đó lại tự cầm bút sửa chữa phương án do Cục Tác chiến thảo thay Quân ủy, phê và trả lời Quân khu Quảng Châu việc điều động, sử dụng binh lực.


20 giờ cùng ngày, được sự ủy nhiệm và ủng hộ của Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai chủ trì Hội nghị về vấn đề quần đảo Tây Sa do Trung ương Đảng, Quốc Vụ viện, Quân ủy trung ương và người phụ trách các mặt có liên quan họp tại Bắc Kinh, đã có đánh giá đầy đủ việc có thể phát sinh vũ trang xung đột. Đêm khuya, Chu Ân Lai chủ trì Hội nghị Bộ Chính trị, và đề nghị Quân ủy trung ương thành lập tiểu tổ 5 người do Diệp Kiếm Anh đứng đầu và Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều, Đặng Tiểu Bình, Trần Tích Liên tham gia, thảo luận và xử lý việc lớn của Quân ủy và công việc tác chiến khẩn cấp. Một lúc sau, ông cùng Vương Hồng Văn liên danh báo cáo lên Mao Trạch Đông, một lần nữa Mao Trạch Đông biểu thị đồng ý.


Lúc này căn cứ vào mệnh lệnh của Quân ủy trung ương, Quân khu Quảng Châu của ta cũng nhanh chóng đưa ra quyết định tương ứng, một mặt cử tàu số 396, 389 Đại đội 10 thuộc Hạm đội quét thủy lôi căn cứ Quảng Châu của Hạm đội Nam Hải và tàu số 271, 274 thuộc Đại đội 73 săn tàu ngầm căn cứ Du Lâm, tiến vào vùng biển gần quần đảo Vĩnh Lạc, Tây Sa chấp hành nhiệm vụ tuần tra, và cử 4 Trung đội dân quân lần lượt tiến vào đóng tại ba đảo Tấn Liễu, Thâm Hàng, Quảng Kim; một mặt “lại cử tàu số 281, 282 Đại đội 74 săn tàu ngầm tiến vào vùng gần đảo Vĩnh Hưng, Tây Sa chấp hành nhiệm vụ chi viện; đồng thời mệnh lệnh Trung đoàn 22 không quân Hạm đội Nam Hải cử hai chiếc máy bay bay tuần tra trinh sát trên vùng trời quần đảo Vĩnh Lạc đồng thời ra lệnh cho không quân Quân khu cử một bộ phận binh lực tăng viện”.


Để đánh tốt trận này, Chu Ân Lai đã kịp thời chuyển đạt quyết định của Hội nghị Bộ Chính trị đã được Mao Trạch Đông đồng ý. Sáng sớm ngày 19, Chu Ân Lai nói với Diệp Kiếm Anh triệu tập Tiểu tổ quân sự 5 người (sau tăng thêm Tô Chấn Hoa) nghiên cứu, thảo luận phương án tác chiến cụ thể quần đảo Tây Sa, bố trí công việc đánh trả tự vệ. Sau đó, ông lại gọi điện cho Bộ Tổng Tham mưu: “ Tình hình Tây Sa phát triển rất nhanh, sợ rằng ngày hôm nay có khả năng đánh trận, vì vậy sau khi được trung ương nghiên cứu, quyết định: do 6 người Diệp Kiếm Anh, Đặng Tiểu Bình, Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều, Trần Tích Liên, Tô Chấn Hoa tổ thành Tổ lãnh đạo, thay trung ương Đảng xử lý vấn đề tác chiến Tây Sa, do đồng chí Diệp Kiếm Anh, Đặng Tiểu Bình phụ trách chung
Ngay sáng hôm đó, Diệp, Đặng và các thành viên Tiểu tổ lãnh đạo đã tới Cục Tác chiến trực tiếp bố trí và chỉ huy hành động quân sự đả kích quân hạm xâm nhập Nam Việt."


Tổ chỉ huy họp bàn việc đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974.

Từ phải qua: Đặng Tiểu Bình, Diệp Kiếm Anh... 

Tài liệu không ghi thời gian, nhưng căn cứ vào nội dung, đoán có thể là ngày 15 hoặc 16/1, trước ngày Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu nắm tình hình và chỉ thị đối sách cho Bộ tư lệnh HQ Vùng I Duyên hải tổ chức thực hiện.

Sau khi được báo cáo có tàu Trung Quốc xuất hiện trên vùng quần đảo Hoàng Sa, Phó Đề Đốc Thoại có trình với các tướng lãnh và Tổng Thống Thiệu. Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại - Tư lệnh Vùng I duyên Hải viết trong hồi ký:
"... Ðúng 08 giờ sáng hôm sau, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và phái đoàn, gồm có Trung Tướng Lê Nguyên Khang, Tổng Tham Mưu Phó; Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lịnh Quân Ðoàn I; Chuẩn tướng Trần Ðình Thọ, Trưởng Phòng 3 Bộ Tổng Tham Mưu, đến bộ tư lịnh Vùng 1 Duyên Hải bằng xe. Tôi đưa tất cả vào phòng thuyết trình. Tôi trình bày cặn kẽ địa hình địa thế của các đảo Hoàng Sa, lịch sử của các hải đảo này và sau cùng những diễn tiến trong mấy ngày qua và lực lượng quân sự TC và Việt Nam trên biển cũng như trên các đảo. Tôi nhấn mạnh việc chiến hạm Việt Nam cố gắng mời chiến hạm TC rời khỏi lãnh hải một cách ôn hoà nhưng tình hình trong 24 giờ qua cho thấy TC có ý định khiêu khích.

Sau khi nghe tôi trình bày xong, Tổng Thống Thiệu lấy bút giấy ra viết liên tục trong khoảng 15 phút. Sau khi viết xong, ông gọi tôi đến trước mặt ông và yêu cầu tôi đọc mấy trang giấy đó. Tổng Thống Thiệu nói : “Anh Thoại đến đây và đọc trước mặt tôi đây, có gì không rõ ràng cho tôi biết ngay từ bây giờ” (1). Trên đầu trang giấy có mấy chữ “Chỉ thị cho Tư Lịnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải”. Những chữ này làm tôi hơi khó chịu vì ông Thiệu không ghi Tư Lịnh Quân Khu I hay Tư Lịnh Hải Quân mà lại đề thẳng chức vụ của tôi. Lúc đó tôi không nghĩ ra rằng với chức vụ Tổng Tư Lệnh Quân Ðội, ông có toàn quyền chỉ thị trực tiếp mỗi đơn vị trưởng trong quân đội. Trong trang chót có đoạn “Chỉ thị cho Thủ Tướng Chánh Phủ”. Bản chánh của thủ bút Tổng Thống Thiệu tôi giữ mãi cho đến đầu tháng Năm, 1975, khi tôi bi mất cắp chiếc cặp lúc đến Fort Chaffee ở Arkansas, Hoa Kỳ (2). Tôi chắc chắn bản gởi cho Thủ tướng Trần Thiện Khiêm vẫn còn được lưu lại đâu đó sau khi Sài Gòn thất thủ.

Sau khi trao thủ bút cho tôi, Tổng Thống Thiệu hỏi các vị tướng lãnh bộ binh hiện diện có ý kiến gì không. Không ai trả lời. Ông nói tiếp : “Chúng ta không để mất một tấc đất nào cả (3)".
 

Ông Hồ Văn Kỳ Thoại trả lời trong cuộc phỏng vấn:
"Đêm 16 Tháng 1, 1974 trong công tác Hải quân thường lệ, tôi được báo cáo có nhiều ngư thuyền lạ và có dấu hiệu của một vài hoạt động trên đảo. Lúc đó tôi đang dùng cơm với Tổng Thống Thiệu và một số tướng lãnh ở Mỹ Khê, Đà Nẳng. Tôi có trình cho Tư Lệnh Quân Khu I , tức là Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, cũng có mặt tại bữa cơm đó. Trung Tướng Trưởng bảo tôi tới trình ngay với Tổng Thống Thiệu. Tổng Thống Thiệu ra lệnh tôi sáng ngày mai tức 17 Tháng 1đến Bộ Tư Lệnh Hải Quân vùng I Duyên Hải để thuyết trình rồi Tổng Thống Thiệu sẽ cho chỉ thị.
Tổng Thống đã nghe tôi tường trình tình hình đêm trước, tôi tin chắc là Tổng Thống đã suy nghĩ kỹ. Sáng hôm sau, trong vòng 45 phút, trước khi quyết định, Tổng Thống có hỏi rất nhiều câu hỏi, và có bàn với các vị tướng lãnh hiện diện trước khi lấy giấy mực ra viết thủ bút cho tôi thi hành. Hơn nữa tôi cũng xin nhắc lại là quyết định của Tổng Thống không phải cho nổ súng để tấn công, tiêu diệt hạm đội của Trung Cộng. Chỉ thị của Tổng Thống là mời các ngư thuyền cũng như chiến hạm lạ ra khỏi lãnh hải của chúng ta. Lúc đó tôi cũng chưa chắc những chiến hạm hiện diện đó là của Trung Cộng. Tổng Thống chỉ thị là làm thế nào để chứng minh cái chủ quyền quốc gia của chúng ta trên các hải đảo bằng mọi biện pháp ôn hòa. Nếu họ không tuân lệnh thì bắt buộc mình phải dùng võ lực để mời họ ra.

Trước khi cho nổ súng chúng tôi cũng đã cho chiến hạm của chúng tôi đuổi họ ra, nhưng sự khiêu khích của họ càng ngày càng nhiều hơn, cho nên Cựu Đại Tá Hà Văn Ngạc có bàn với tôi là phải đi tới quyết định “ khai hỏa”.
Tuyết Mai: Thưa Đô Đốc như vậy thì trận chiến Hoàng Sa lúc đầu dự tính chỉ đuổi những ngư thuyền và chiến hạm ra khỏi lãnh hải, chứ không dự tính trước sẽ có một cuộc hành quân, một trận hải chiến dữ dội giữa Hải Quân VNCH và Hải Quân TQ?
Hồ Văn Kỳ Thoại: Không , không. Tôi nhấn mạnh là không có một cuộc hành quân gì cả. Hôm 18/1 tôi có ra lệnh bằng giấy trắng mực đen cho Đại Tá Hà Văn Ngạc có thể thi hành nhiệm vụ có giấy tờ, nhưng đó không phải là cuộc hành quân mà chỉ là việc làm rất là thường xuyên."


TT Thiệu rời Bộ Tư Lịnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải, sau khi ra chỉ thị về biện pháp đối phó với Trung Quốc.


Đại tá Hà Văn Ngạc - Hải đội trưởng, chỉ huy trực tiếp trận hải chiến kể:

"Sáng sớm ngày 17, không kịp thông-báo đến Tư-lệnh Hạm-đội; tôi lên phi-trưởng Tân-sơn-Nhứt và đến thẳng ngay Trạm hàng-không quân-sự đi Đà Nẵng... đến BTL/HQ Vùng I duyên-hải tôi mới được biết chi-tiết những gì đang xẩy ra tại Hoàng-Sa... Tư-lệnh HQ vùng I duyên-hải cũng cho tôi hay và giơ một tờ giấy nhỏ nói là ông có thủ-bút của Tổng-thống vừa tới thăm bản-doanh trước đây, nhưng tôi không hỏi về chi-tiết cũng như xin xem thủ-bút vì tôi nghĩ đó là chỉ-thị riêng tư giữa Tổng-Thống và một vị Tướng-lãnh. Vị Tư-lệnh này còn cho tôi hai chọn-lựa: một là chỉ-huy các chiến-hạm ngay tại Bộ-Tư-lệnh Vùng, hai là đích-thân trên chiến-hạm. Tôi đáp trình ngay là: Tôi sẽ đi theo các đơn-vị của tôi.
Ðến khoảng buổi chiều thì Tư-lệnh vùng I duyên-hải còn hỏi tôi có cần thêm gì, tôi trình xin thêm một chiến-hạm nữa vì cần hai chiếc khi di-chuyển trong trường-hợp bị tấn-công trên hải-trình, chứ không phải vì số lượng chiến-hạm Trung-cộng đang có mặt tại Hoàng-Sa... Tôi dùng cơm chiều gia-đình cùng Tư-lệnh HQ Vùng tại tư-thất trong khi chờ đợi Tuần-dương-hạm HQ5 tới. Sau bữa ăn, Tư-lệnh HQ Vùng đích-thân đi bộ tiễn-chân tôi ra cầu quân-cảng. Sau trận-chiến, vị Ðô-đốc này có thổ-lộ cùng tôi là ông đã tưởng đó là bữa cơm cuối cùng của ông với tôi. Như vậy là trận hải-chiến đã dự-liệu là sẽ có thể xẩy ra, và chắc vị Ðô-đốc đã mật-trình về Tư-lệnh Hải-quân thường có mặt tại Bộ-Tư-lệnh."


Tác giả Trần Đỗ Cẩm phân tích ý đồ của TQ:
 "Để mở đầu kế hoạch lấn chiếm, trên mặt ngoại giao, Bộ Ngoại Giao Trung Cộng đột nhiên lên tiếng đòi chủ quyền tại Hoàng Sa, đồng thời lén lút cho ngư thuyền võ trang chở quân lính giả dạng dân đánh cá đổ bộ lên một số đảo do VNCH kiểm soát từ lâu trong vùng Hoàng Sa. Dự đoán thế nào phía VNCH cũng phản ứng mạnh mẽ, chính phủ Trung Cộng từ các giới chức cao cấp nhất như Chủ Tịch Mao Trạch Đông đến Đặng Tiểu Bình, Châu Ân Lai và toàn bộ Quân Ủy Trung Ương đã đồng thanh quyết định sẽ dùng biện pháp quân sự để đánh chiếm Hoàng Sa từ tay VNCH nếu cần.
Khởi đầu, họ đổ quân lên các đảo, đồng thời cho tàu bè và chiến hạm khiêu khích lực lượng VNCH. Nếu các chiến hạm VNCH lặng lẽ cúi đầu bỏ đi như lời một viên chứa Hoa Kỳ tại Việt Nam đe dọa "nếu các chiến hạm Việt Nam nổ súng tại Hoàng Sa, Hải Quân VNCH sẽ bị xoá tên ngay," Trung Cộng sẽ ngang nhiên chiếm Hoàng Sa theo chiến thuật tiệm tiến "tầm ăn dâu" lấy từng đảo một như họ làm tại Trường Sa sau này. Ngược lại, nếu Việt Nam Cộng Hòa tham chiến, dù các Hải Quân VNCH có chiến thắng đánh chìm tất cả các chiến hạm Trung Cộng tại chỗ nhưng vẫn không thể giữ được Hoàng Sa vì lực lượng tăng viện Trung Cộng gồm nhiều chiến hạm tối tân và có cả phi cơ tham chiến sẽ kéo tới đánh chìm các chiến hạm VNCH dễ dàng. Vì vậy, khi TDH Lý Thường Kiệt được phái ra Hoàng Sa vào ngày 15 tháng 1 năm 1974 để thám sát, chính phủ Trung Cộng liền lập tức xử dụng phương tiện quân sự.
Như vậy, chúng ta thấy rõ sách lược bành trướng tại Biển Đông đã được Trung Cộng chuẩn bị kỹ càng, khởi đầu bằng việc gây hấn tiến chiếm Hoàng Sa. Đây là một quốc sách quan trọng đã được hoạch định từ lâu nên trận hải chiến tại Hoàng Sa đã được cố ý dự trù, tiên liệu, chuẩn bị và thiết kế chu đáo. Về phía VNCH, trong lúc phải đối đầu trong trận chiến một mất một còn với Việt Cộng trong nội địa, việc tham chiến tại Hoàng Sa chỉ là một sự tình cờ, cũng như TDH Lý Thường Kiệt HQ-16 ra Hoàng Sa với nhiệm vụ chính chở phái đoàn Công Binh thám sát thiết lập phi trường, tình cờ phát hiện ngư thuyền và quân Trung Cộng trong vùng. Sau đó, VNCH mới hối hả phái các chiến hạm khác ra tăng cường.

Điều đó cho thấy sách lược bành trướng tại Biển Đông đã được Trung Cộng chuẩn bị kỹ càng, khởi đầu bằng việc gây hấn tiến chiếm Hoàng Sa. Đây là một quốc sách quan trọng đã được hoạch định từ lâu  đã được cố ý dự trù, tiên liệu, chuẩn bị và thiết kế chu đáo. Về phía VNCH, trong lúc phải đối đầu trong trận chiến một mất một còn với Việt Cộng trong nội địa, việc tham chiến tại Hoàng Sa chỉ là một sự tình cờ, cũng như TDH Lý Thường Kiệt HQ-16 ra Hoàng Sa với nhiệm vụ chính chở phái đoàn Công Binh thám sát thiết lập phi trường, tình cờ phát hiện ngư thuyền và quân Trung Cộng trong vùng. Sau đó, VNCH mới hối hả phái các chiến hạm khác ra tăng cường." nên trận hải chiến tại Hoàng Sa."
___________


Qua những gì được biết, cho thấy  người lãnh đạo cao nhất của TQ để tâm nghiên cứu kỹ từ trước chờ cơ hội cho quân đội ra tay, trong khi đó Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và bộ tham mưu gần như không quan tâm chỉ biết giữ chủ quyền lãnh thổ - cái đang có.
Nó chứng tỏ sau hiệp định Paris, Mỹ bắt đầu rút khỏi VN thì TQ đã hình thành ý đồ thôn tính nốt nhóm đảo Nguyệt Thiềm còn lại trong quần đảo Hoàng Sa, vấn đề còn lại là thời cơ hội đủ 3 yếu tố: thiên thời , địa lợi, nhân hòa. Họ chọn thời cơ khi biết Mỹ sẽ không can dự nếu xảy ra tranh chấp, quân đội VNCH tỏ ra yếu thế, đang bị quân đội NDVN tổng phản công lấn lướt trên các mặt trận đất liền.

Trước ngày 17, Chủ tịch Mao Trạch Đông phê chuẩn đồng ý với kế hoạch và nói: xem ra không đánh một trận không xong! với sự đồng thuận của một tập thể lãnh đạo. Hôm sau về phía VNCH, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu mới quyết định: ra lệnh làm thế nào để chứng minh cái chủ quyền quốc gia, yêu cầu họ ra khỏi họ ra khỏi lãnh hải, nếu thì bắt buộc mình phải dùng võ lực, tất nhiên Tổng thống đã có sự tham vấn các sĩ quan tham mưu cao cấp của mình.
Như vậy, thể hiện TQ đã đi trước một bước trong chủ trương dùng biện pháp rắn để giải quyết vấn đề và lập trường của VNCH có vẻ ôn hòa hơn, dùng võ lực là điều "cưc chẳng đã".

Tuy vậy điều đáng lưu ý trong đối sách khôn ngoan của TQ là đưa lực lượng dân quân bán vũ trang bí mật đi trước dưới sự hổ trợ của tàu chiến hải quân ở vòng ngoài để hạn chế va chạm trực diện với lực lượng đồn trù và hải quân VNCH có nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền ở đây và đồng thờ tránh dư luận thế giới lên án xâm lược nếu tấn công trước về mặt quân sự. Nhưng họ sẵn sàng chấp nhận va chạm nếu tình hình tiến triển bất lợi, đụng độ quân sự giữa hai bên nằm trong dự kiến của họ.
Giả định hai tình huống:
- Nếu lực lượng dân quân bí mật xâm nhập các đảo thành công, cắm cờ, dựng nhà tạm... làm bằng chứng chủ quyền và quân VNCH không phát hiện, không có phản ứng thì họ sẽ tăng cường thêm quân chủ lực xây dựng công sự phòng thủ, xem như họ lấn thêm được ít nhất là 4 đảo: Duy Mộng, Quang Hòa, Vĩnh Lạc, Cam Tuyền.
Về tinh thần chỉ đạo,
Đây là một âm mưu tạo cớ để gây hấn, vì trước đó mọi việc diễn ra bình thường, quân VNCH không có hoạt động gì mới, ngoài 25 quân nhân đồn trú một chỗ như thường lệ ở đảo Hoàng Sa.


Chỉ thị mật của Bộ Ngoại giao yêu cầu khảo sát tài liệu về Hoàng Sa và Trường Sa trong những ngày tết năm 1974
Trong số hình ảnh triển lãm ấy có 1 bản công văn của Bộ Ngoại giao, chữ đánh máy, có đóng dấu Mật và Hỏa tốc, đề ngày 22-1-1974, gửi cho các nơi như này: – Đ/c Giám đốc Thư viện Nhà nước; Đ/c Giám đốc Thư viện Khoa học xã hội; Đ/c Cục trưởng cục Lưu trữ; Đ/c Viện trưởng Viện Sử học.
Nội dung là:
Thủ tướng Chính phủ cần tư liệu về vấn đề chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Tây Sa và Nam Sa.
Đề nghị đồng chí bố trí cán bộ làm việc trong mấy ngày Tết sưu tầm gấp các tư liệu, bản đồ về vấn đề này để trong vài ba ngày kịp trình lên đồng chí Thủ tướng.
Chúng tôi xin cử cán bộ đến trực tiếp trình bày với các đồng chí để nói rõ thêm về vấn đề này.
Công văn có dấu Bộ Ngoại giao, chữ ký của Thứ trưởng Hoàng Văn Tiến.
Ngoài ra, bên cạnh còn có bút tích ghi bằng mực màu đen: Đề nghị anh Chi tích cực thực hiện giúp. Chữ ký bên dưới đọc có lẽ là “Văn Tạo”.
Đây là công văn ra đời 3 ngày sau khi Hoàng Sa bị Trung Quốc tiến chiếm (19-1-1974). Nội dung thể hiện không khí gấp gáp của Chính phủ thông qua ý muốn của Thủ tướng cần có tư liệu, bản đồ thể hiện chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nên đã chỉ thị các cơ quan liên quan tìm ngay trong mấy ngày tết.
Ảnh chụp công văn này khi đưa triển lãm được chú thích là: “Chỉ thị mật của Bộ Ngoại giao yêu cầu khảo sát tài liệu về Hoàng Sa và Trường Sa trong những ngày tết năm 1974”.
Theo: Lamdien

Thứ Ba, 31 tháng 3, 2015

1974, VNCH có thể giữ được Hoàng Sa?

Nhớ lại và suy ngẫm về vụ Hải Chiến Hoàng Sa (1974)



Đặt vấn đề
trích vài đánh giá ngược chiều



Bill Hayton trận hải chiến Hoàng Sa không phải là màu hồng.
Ông kết luận “Đánh giá một cách khách quan, trận chiến là một thảm họa, tuy nhiên những lính quay trở về được chào đón như những người hùng. Truyền thông Nam Việt Nam được kể lại rằng đội tàu VNCH đã làm chìm hai tàu và ngăn cản được hạm đội Trung Quốc lớn hơn nhiều lần. Trận chiến được thêu dệt ly kì như huyền thoại vào đúng dịp Tết. Nhưng trên thực tế, đó lại là một thảm họa”
Thiếu Tá Hải Quân Trần Trọng Ngà (Khóa 12 SQ/HQNT) làm Trưởng Ban Ủy Ban Nghiên Cứu Trận Hải Chiến Hoàng Sa
Mặc dù HQVNCH mất một chiến hạm và 74 quân nhân đã hy sinh nhưng chính sự hy sinh sinh mạng và hao tốn chiến cụ này đã là một chứng cớ cụ thể xác quyết quần đảo Hoàng Sa là của Việt Nam và người Việt đã đổ máu để bảo vệ.
Đây là một bằng chứng thực tế không thể hiểu sai, bên cạnh các bằng chứng về lịch sử và địa lý, để xác nhận chủ quyền quần đảo Hoàng Sa thuộc về Việt Nam mà Trung Cộng đã dùng vũ lực để chiếm đoạt. Trong ý nghĩa đó, trận hải chiến Hoàng Sa là một chiến tích quan trọng của dân tộc Việt.



Hải quân Trung quốc sau khi đánh bại hạm đội Việt Nam Cộng Hòa đã không truy kích để cho hạm đội VNCH an toàn trở về căn cứ Đà Nẵng (xem bài Trận hải chiến lịch sử Hoàng Sa của đại tá Hà Văn Ngạc).





M

Thứ Bảy, 28 tháng 3, 2015

VNCH đồn trú Hoàng Sa, đúng nghĩa là giữ bãi chim ỉa!

Lão Cạo theo dõi những diễn biến trong trận Hải chiến Hoàng Sa 1974 về phía VNCH, không thấy có sự hợp đồng giữa quân thuỷ và bộ, hoạt động của lực lượng đồn trú của VNCH ở đây rất mờ nhạt... Lão không khỏi tò mò, vậy lính đồn trú của VNCH ở đó đã làm gì cho đến khi bị TQ bắt.
Theo tài liệu và những gì nhân chứng đã từng sống ở Hoàng Sa tường thuật, đôi chỗ thông tin có mâu thuẫn nhau nhưng hình dung khái quát thế này:

Vô đề 
Về thực thi chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa, túm lại cho bạn nào ít quan tâm dễ hiểu:
Quần đảo Hoàng Sa có 2 nhóm đảo, trên thực tế Trung Quốc chiếm đóng và kiểm soát nhóm An Vĩnh ở phía Đông Bắc và VNCH chiếm đóng và kiểm soát nhóm Lưỡi Liềm ở phía Tây Nam.
Về lịch sử, bỏ qua thời nhà Nguyễn, đến thời Pháp họ có đóng quân ở đảo Phú Lâm (An Vĩnh), đảo Hoàng Sa (Lưỡi Liềm) và thỉnh thoảng dùng tàu tuần tra vòng quanh kiểm soát cả quần đảo, rồi thời Nhật chiếm đóng, Pháp lấy lại. Thời VNCH đóng quân chủ yếu là đảo Hoàng Sa, từ đó kiểm soát các đảo kế cận, còn Trung Quốc đóng quân đảo Phú Lâm, kiểm soát các đảo kế cận.
Lúc đầu có một tiểu đoàn Thuỷ quân Lục chiến VNCH đóng quân bảo vệ đủ 5 đảo, có ca nô đi tuần tra, sau giảm xuống một đại đội, từ 1959 chỉ còn một trung đội, rồi chuyển dần nhiệm vụ cho Bảo an, sau này là Địa phương quân thuộc Tiểu khu Quảng Nam.
Quân số địa phương quân thường trực khoảng 30 đến 35 người, đóng quân trên 3 đảo là Hoàng Sa, Quang Hoà, Duy Mộng, rồi giảm tiếp quân số và "chết dí" một chỗ là đảo Hoàng Sa, họ không có xuồng ghe đi tuần tra nên các đảo gần đó có gì bất thường họ không hề biết.
Trong thời gian hải chiến Hoàng Sa 1/1974, thực tế có 25 lính và 4 nhân viên khí tượng tại đảo Hoàng Sa.

Công trình trên đảo Hoàng Sa thời Pháp "ất giáp bài bản":
Vũ lực không đem lại chủ quyền - Ảnh 1
Thời VNCH đảo Hoàng Sa "tệ như nhà vợ thằng đậu":
 

Họ là gồm những ai?

Là những lính Địa phương quân (lính vườn) kể cả trung đội trưởng vì do kỷ luật kém hay bị đì (đày)... được gom từ các đơn vị thành trung đội đưa ra đảo Hoàng Sa. Đa số họ có vợ con đùm đề ở quê nhà, lương trong đất liền vợ lãnh, khi về mang theo cá khô, rong biển... làm quà cho vợ con.

Nhiệm vụ, trách nhiệm?
Đi bộ vòng quanh đảo mất 20 phút, nhiệm vụ của họ là trấn thủ để bảo vệ và xác định chủ quyền của đảo Hoàng Sa thuộc Việt Nam Cộng Hòa chấm hết.

Công tác trong bao lâu?
Định kỳ là 3 tháng, phạm vị trễ 10 ngày, có nhân chứng cho rằng kéo dài mãi 6 tháng (chắc vì lý do nào đó, có tàu ra tiếp tế lương thực, thực thẩm). Khi đổi quân là thay toàn bộ lính lẫn tổ khí tượng, người cũ bàn giao cho người mới đến. Nhân viên khí tượng vần đi vần lại cũng bao nhiêu khuôn mặt đó, có người ra Hoàng Sa đến mười mấy lần, họ là những người biết rành nhất về Hoàng Sa.

Đi ra bao lâu và liên lạc bằng gì?
Từ Đà Nẵng đi  Hoàng Sa trên dưới 1 ngày tuỳ loại tàu và thời tiết. Trước đóng quân trên 3 đảo có máy thông tin liên lạc với nhau, sau không có. Muốn liên lạc về chỉ huy ở đất liền phải thông qua máy của đài khí tượng. Họ không có phương tiện truyền tin với các tàu như cờ, đèn hiệu ... (thậm chí cái ống nhòm cũng không nghe nhắc đến) nên muốn ra lệnh cho các tàu cũng không được.

Sống bằng gì?
Khi nhận ra công tác mỗi người mang theo lương thực, thực thẩm đủ dùng trong thời gian quy định. Nếu tàu định kỳ ra trễ, anh em phải giảm khẩu phần ăn cháo cầm hơi. Ban đầu, đơn vị có gia cầm mang theo, ăn hết thì thôi, có trồng ít rau gia vị... Thực phẩm hằng ngày là đánh bắt hải sản như cá, cua, ốc, vít... Uống nước từ bể chứa nước mưa dự phòng (đôi khi bị hết nước phải xài nước giếng), nước giếng dùng để tắm giặt vì bị nhiễm phốt phát. Do nhà cửa tạm bợ, gạo bảo quản không tốt, co khi họ phải ăn gạo mục mốc.

Cơ sở vật chất có gì?
Trên đảo có nhà kiên cố xuống cấp từ thời Pháp để lại là trạm khí tượng và vài nhà lợp tôn hoen rỉ cho lính, không còn cửa nẻo, mùa biển động phải dùng bạt che chắn, chịu cảnh ướt át lạnh lẽo mỗi khi có gió bão. Có lần tại đảo Duy Mộng , căn nhà anh em trú ngụ cũng bị bão đánh trốc cả mái , những tấm tôn lợp bay tứ tung ra rừng cây ráy biển, mọi người trên đảo phải phủ pon-cho ẩn nấp trong những hốc đá chờ bão tan họ mới cùng nhau đi tìm nhặt những tấm tôn mang về tu sửa lại nhà.

Việc phòng thủ có gì?
Không có hệ thống hào chiến đấu, không rào kẽm gai, không mìn, có mấy lô cốt cũ thời Nhật chiếm đóng. Nghe nói ngoài súng cá nhân M-16 còn có súng cối, đại liên, tất cả đều cất vào kho, lính thường ngày không mang súng (sợ bắn nhau), khi cần mới được dùng súng bắn cá, vít. Khi quân TQ đổ bộ vào không nghe sử dụng súng lớn để chống trả, có lẽ để lâu ngày bị rỉ sét hoặc họ không dám dùng.

Làm gì trên đảo?
Ngày bắt cá, đêm ngủ, lang thang ở trân lội bộ ra các rạn san hô thả lưới câu cá, không nghe nói tổ chức luân phiên canh gác. Lính phát hiện bằng mắt có máy bay, tàu lạ gõ kẻng báo động cho nhau, sau đó điện báo về đất liền. Nhân viên khí thượng thay nhau thả bóng khí tượng, ghi chép thông số, điện về đất liền dự báo bão. Ngoài ra để tránh buồn chán, họ, đờn ca, đánh bài giải sầu... Có vài lần tàu thuyền "nước lạ" ghé vào, sau hải chiến họ mới nghĩ ra là quân Trung Quốc giả dạng để nắm bắt tình hình phòng thủ trên đảo

Lỡ xảy ra bênh tật thì sao?
Thường có một y tá đi cùng với thuốc men thông dụng. Có trường hợp một người bị rắn biển cắn, chỉ huy điện liên tục về đất liền, không tàu ra, nằm chờ chết, may sao đến ngày về bị liệt người chứ không chết! Chuyện kể rằng khi Nhật đảo chính Pháp, anh em trên đảo bị bỏ rơi, bèn kiếm gỗ làm bè thả về đất liền, sau mấy ngày nhịn đói, họ táp vào bờ biển Qui Nhơn. Năm 1963, xảy ra đảo chánh lật đổ Tổng thống Diệm, cơ sở chế biên phân phốt-phát của bà Nhu ngưng hoạt động, toán công nhân ở đây suýt đói vì bị bỏ quên.  

Ngày xảy ra hải chiến, họ làm gì?
Không khí chiến tranh gần như không hề xuất hiện ở đây, tối cuối cùng trước khi trận chiến xảy ra, họ còn ngồi quây quần với nhau đàn hát nhạc của Trịnh Công Sơn... .Ngày 19/1 họ đứng xem hải quân hai bên bắn nhau như màn ảnh, hải quân.VNCH rút, quân Trung Quốc đổ bộ, họ bắn đì đoàng chiếu lệ, quân TQ vào bắt làm tù binh, không phải như mấy ảnh nói bắn hết đạn mới chịu đầu hàng...

Thơ của một chúa đảo Hoàng Sa
Tàu ra khơi anh mang theo nỗi nhớ
Gọi người tình giữa sóng nước mù
Em thành phố,anh miền xa hải đảo
Nhớ nhau xin soi mặt ánh trăng rằm .

Khói quyện tơ sầu trên ngón tay
Chiến y năm tháng nặng vai gầy
Hành trang nửa mãnh trăng đầu súng
Đi mãi cho tròn nghĩa nước mây .

Dư Mỹ

Đại úy Trần Kim Diệp nhận xét
Riêng về đội quân trấn đảo , tiếng là ‘’trấn thủ ‘’nhưng thực ra là đi tù . Họ gồm 22 quân nhân diện vô kỹ-luật thuộc những Đại-Đội ĐPQ của Quân-Khu 1, do 1 viên Sĩ-Quan cấp bậc Tr/U cũng vô kỹ-luật được chỉ định làm Trưởng Toán ( Đây là điều sai lầm vô cùng to-tát của các cấp lảnh đạo đã xem nhẹ và để mất quần đảo quý báu này ) .Vì là thành phần bị đi đày nên trong thời gian từ 3 đến 6 tháng ở đảo , họ không hề có tôn ti , cấp bậc mà sống theo ‘’luật của kẻ mạnh ‘’ và tất cả vũ-khí đều phải cất vào kho để tránh trường hợp họ dùng để thanh toán nhau .
Lương thực , thực phẩm mang theo thường được phung phí thật nhanh , sau đó hàng ngày toả ra bìa đảo để mò sò, ốc , bắt cua , cá , mực sống qua ngày . Vùng biển HS rất giàu hải sản , đặc biệt có loại ốc tai tượng rất to . Khi chúng tôi đến đảo thì được viên Sĩ-Quan Trấn Đảo Tr.U HY đải món khô gân ốc tai tượng nướng ăn khá ngon miệng .


 
 
Công trình trên đảo Hoàng Sa thời Pháp





 

Thợ cạo đã mổ:

Những cục sạn không nuốt nổi của nguyên TB Biên giới QG về Hải chiến HS...
Truyên truyền biển đảo kiểu Vịt, ăn cho hết! (có liên quan đến TS Trục)
Hải chiến Hoàng Sa 1974 - Những gì bạn biết có thể chưa hẳn thật.
Những quyết định khó hiểu của chỉ huy quân VNCH trong HCHS 1974?
Hoàng Sa mất - Tại ải tại ai?
HQ/VNCH mở cuộc hành quân THĐ 48 chiếm cứ 5 đảo ở Trường Sa ...
.....