bài viết của HQ Đại Tá Bùi Hữu Thư
Khi Pháp rút về, họ để lại trên Paracells một hải đăng và một đài khí tượng, một cầu tầu có cần trục nhỏ. Tôi có nghiên cứu về việc khai thác phân bón ở đây trong cuộc thi giải Văn Hoá Quân Đội do BTTM tổ chức. Ngưoi Pháp đã từng có kế hoạch khai thác phân chim ở đây từ lâu.
TC đã đóng từ lâu trên đảo Boise (Wooddy) chỉ cách phía băc Hoang Sa có
20 hải lý. Có một chiến hạm đã đến đây thả neo một đêm sáng ra thấy cờ
TC mói biết đi nhầm, bèn kéo neo chạy. Sau khi Pháp rút, chúng ta đã
đóng quân và đã từng bắt một số ngư phủ TC giải về Đà Nẵng. Điều này
minh chứng rõ ràng chủ quyền Hoàng Sa là của Việt Nam.
HQ10 do ĐT Ánh lãnh về và trao cho tôi tại Phú Quốc. HQ10 sau đó đã cùng HQ11 do Ông Đào chỉ huy tham dự lễ khánh thành cầu tầu mới của căn cứ Hải Quân Đa Nẵng ở Tiên Sa năm 1964.
Khi hai chiếc cặp cầu tầu có sự chứng kiến của TL/HQ và các tướng lãnh và quan khách Việt Mỹ. Hôm đó gió mùa đông bắc thổi mạnh, tôi phải cặp cầu phía trên gió, khá run, vì va cầu tầu ngay chỗ khán đài thì mình đi đoong. Nhờ thả neo mũi nên đáp rất êm, và khi tách ra cũng dễ dàng. HQ10 đã có mặt tại bốn vùng duyên hải và đã có nhiều chiến công hiển hách tại vùng 1, 2, và 3. Rất tiếc lại phải chìm vào lòng biển sâu cả ngàn thước.
Đúng 10 năm sau thì tầu chìm mang theo HT, HP và bao nhiêu anh em HQ trong đó có nhiều người đã từng đi với tôi.
Tôi có dịp ra Hoàng Sa nhiều lần với HQ402 năm 1956, HQ329 năm 1958 1959, tuần tiểu trong hai tháng thường xuyên tiếp tế cho trung đội TQLC đóng trên đảo Duncan, Drummond, và HQ01 năm 1960 để tiếp tế khi bị bão, và phi cơ ra thả dù thì dù bay ra biển. Chuyến tiếp tế của tôi cũng bị sóng lớn làm cho heo, gá và vịt đều bay xuống biển hết. Chỉ có mấy con bò là còn bị chặn lại. Ngoài đó không có cỏ cho bò ăn, nhưng nhiều cá và bắt rất dễ. Ngoài ra còn có trứng chim hải âu và trứng con vít, nên anh em TQLC không thiếu thức ăn. Họ biến thành người nhái suốt ngày săn cá. Họ chế ra các kiến lặn bằng mắt các đốt tre, và dùng xiên săn cá. Ngoài đảo Duncan có hai nấm mộ anh em TQLC nói là họ mượn mấy tấm ván hòm nằm cho đỡ lạnh đêm đêm bị ma đuổi. Họ xin tôi về Đà Nẵng mua vàng hương, gạch xi măng ra cho họ xây miếu thờ. Họ còn nói là có hai con ma nữ, một tóc dài, một tóc quăn mỗi đêm về thăm mấy anh lính. Sáng ra anh nào xuống biển tắm sớm là đêm trước ngủ với ma.
Hoàng Sa là một miệng núi lửa đã tắt. Lòng chảo chỉ sâu chừng 30 mét, cá
nhiều vô kể, ốc tai tượng to bằng cái bàn. Cá đuối to bằng cái chiếu
to, đuôi cá to như cái cột. Trên Banc de Corailles chim hải âu đậu xuống
đẻ trứng, khi chúng bay lên che cả mặt trời như đàm mây. Con vít cũng
lên đây đẻ trứng, ban đêm sách đèn đi lật ngửa nó lên va hốt trứng. Thịt
vít ngon như thịt gà, trứng cũng ngon. Đừng ăn thịt đồi mồi mà cả tầu
402 nổi phong ngứa gần chết. Trứng hải âu có thể hốt một lúc cả 3000
trái, chiên hay luộc ăn cũng ngon nhưng hơi hôi thôi. Thịt hải âu thì
tanh lắm.HQ10 do ĐT Ánh lãnh về và trao cho tôi tại Phú Quốc. HQ10 sau đó đã cùng HQ11 do Ông Đào chỉ huy tham dự lễ khánh thành cầu tầu mới của căn cứ Hải Quân Đa Nẵng ở Tiên Sa năm 1964.
Khi hai chiếc cặp cầu tầu có sự chứng kiến của TL/HQ và các tướng lãnh và quan khách Việt Mỹ. Hôm đó gió mùa đông bắc thổi mạnh, tôi phải cặp cầu phía trên gió, khá run, vì va cầu tầu ngay chỗ khán đài thì mình đi đoong. Nhờ thả neo mũi nên đáp rất êm, và khi tách ra cũng dễ dàng. HQ10 đã có mặt tại bốn vùng duyên hải và đã có nhiều chiến công hiển hách tại vùng 1, 2, và 3. Rất tiếc lại phải chìm vào lòng biển sâu cả ngàn thước.
Đúng 10 năm sau thì tầu chìm mang theo HT, HP và bao nhiêu anh em HQ trong đó có nhiều người đã từng đi với tôi.
Tôi có dịp ra Hoàng Sa nhiều lần với HQ402 năm 1956, HQ329 năm 1958 1959, tuần tiểu trong hai tháng thường xuyên tiếp tế cho trung đội TQLC đóng trên đảo Duncan, Drummond, và HQ01 năm 1960 để tiếp tế khi bị bão, và phi cơ ra thả dù thì dù bay ra biển. Chuyến tiếp tế của tôi cũng bị sóng lớn làm cho heo, gá và vịt đều bay xuống biển hết. Chỉ có mấy con bò là còn bị chặn lại. Ngoài đó không có cỏ cho bò ăn, nhưng nhiều cá và bắt rất dễ. Ngoài ra còn có trứng chim hải âu và trứng con vít, nên anh em TQLC không thiếu thức ăn. Họ biến thành người nhái suốt ngày săn cá. Họ chế ra các kiến lặn bằng mắt các đốt tre, và dùng xiên săn cá. Ngoài đảo Duncan có hai nấm mộ anh em TQLC nói là họ mượn mấy tấm ván hòm nằm cho đỡ lạnh đêm đêm bị ma đuổi. Họ xin tôi về Đà Nẵng mua vàng hương, gạch xi măng ra cho họ xây miếu thờ. Họ còn nói là có hai con ma nữ, một tóc dài, một tóc quăn mỗi đêm về thăm mấy anh lính. Sáng ra anh nào xuống biển tắm sớm là đêm trước ngủ với ma.
Tôi có kéo 2 sà lan ra đảo Paracels đe khai thác phân bón ở đây năm 1959.
Trước 1974 lúc nào cũng có phi cơ Orion P3 cua HK bay trên đầu mỗi ngày. Vì TC biết Mỹ sẽ không can thiệp nên mới dám tấn công mình. Rất tiếc hỏa lực của HQ10 và tốc độ yếu nên bị thiệt hại nặng. Xin vinh danh những anh hùng tử sĩ trong trận hải chiến Hoàng Sa và chia xẻ với quý chiến hữu vài kỷ niệm về Hoàng Sa và Hộ Tống Hạm Nhật Tảo.
B H Thư
Nguồn: Hqvnch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét