Vấn đề đặt ra là âm mưu và kế hoạch của TQ thôn tính trọn quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam có từ khi nào và phía VNCH đã có những động thái phản ứng như thế nào?
Theo Hiệp định Genève,
Tháng 4/1956, quân Pháp phải rút lui khỏi Việt Nam, để lại khoảng trống bố phòng ở Biển Đông.
Tháng 8/1956, Việt Nam cộng hòa chiếm đóng kiểm soát các đảo phía Tây, Trung Quốc chiếm đóng kiểm soát các đảo phía Đông của quần đảo Hoàng Sa. Theo TQ thì 17 tháng 3 năm 1959, căn cứ vào chỉ thị của Chủ tịch Mao, bộ đội hải quân, chiến hạm nước ta đã đến vùng biển Tây Sa.
Tháng 2/1959, Trung Quốc dùng 60 và 5 ghe ngư dân bí mật xâm nhập làm nhà, cắm cờ trên đảo Quang Hòa nhưng âm mưu không thành công, bị đại đội Thủy quân Lục chiến VNCH đồn trú phát hiện bắt áp giải về giam tại Đà Nẵng, sau đó trao trả cho TQ.
Những năm tiếp theo sau đó, thỉnh thoảng hai bên đấu tranh ngoại giao qua những tuyên bố và văn bản hành chính thể hiện chủ quyền thuộc về nước mình, hầu như không có va chạm đáng kể trên thực địa.
Trước tháng 1/1974, theo những nhân chứng binh lính VNCH đồn trú ở Hoàng Sa tường thuật đã có vài lần ngư dân TQ ghé vào đảo với lý do gặp nạn hoặc thăm viếng giao lưu, sau khi hải chiến xảy ra họ mới chợt nghĩ ra: đó chính là binh lính TQ giả dạng ngư dân để trinh sát.
TQ sau 10 năm hổn loạn do Cách mạng Văn hóa
Xuất phát,
Theo báo Thanh niên dẫn lại từ báo chí Trung Quốc,
"Từ năm 1972, Tổng thống Mỹ Richard Nixon do muốn giành thắng lợi ở cuộc bầu cử, đã quyết định rút hết quân khỏi miền Nam Việt Nam. Trước khi rút, Nixon đã ra lệnh để lại thiết bị quân sự tối tân cho Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu, coi như chút trách nhiệm cuối cùng dành cho đồng minh thân thiết. Lúc đó hải quân miền Nam Việt Nam được trang bị hơn 10 tàu chiến tối tân của Mỹ với các trang thiết bị vượt xa hạm đội Nam Hải của Trung Quốc. Vì vậy ông Thiệu đã không hề sợ hãi Trung Quốc.
Báo chí đại lục cho rằng từ tháng 8.1973, chính quyền miền Nam Việt Nam đã cử nhiều binh lính tới đóng tại nhiều đảo và rạn san hô của quần đảo Trường Sa. Còn tại quần đảo Hoàng Sa, Việt Nam Cộng Hòa đóng quân trên hòn đảo có cùng tên gọi (Hoàng Sa).
Mao Trạch Đông sớm phán đoán tình hình trên, nên đầu năm 1972, đã hạ lệnh triệu tập 3 bộ (gồm: Bộ Quốc Phòng, Bộ Ngoại giao, Bộ Giao thông) và 4 bên (gồm quân khu Quảng Châu, Hải quân, Cục thông tin Bộ Ngoại giao, Cục Thủy sản Bộ giao thông) cùng nhóm họp để giải quyết vấn đề mà phía Trung Quốc gọi là “phòng bị cho Hoàng Sa”. Tất cả các bộ ngành trên đều có mối liên quan mật thiết tới vấn đề Hoàng Sa.
Mao Trạch Đông đã yêu cầu “phòng ngự Hoàng Sa phải đạt tiêu chuẩn cao, theo kiểu một pháo đài bất khả xâm phạm mình đồng da sắt”. Một quyết định quan trọng trong cuộc họp được đưa ra là việc xây dựng trên đảo Phú Lâm (phía Trung Quốc gọi là đảo Vĩnh Hưng) thuộc Hoàng Sa của Việt Nam cơ sở hạ tầng để có thể đón tàu hàng ngàn tấn và máy bay phản lực, đồng thời huy động 74 đại đội tàu săn ngầm, tàu đổ bộ tới đóng ở đây, để đảo Phú Lâm được xây dựng thành một cứ điểm quan trọng trong quần đảo Hoàng Sa.
Trung Quốc cũng phái nhiều ngư dân, dân binh đánh đuổi đội lính Việt Nam ở đảo Hoàng Sa. Tuy nhiên, tới đầu năm 1974, sự việc này vẫn chưa giải quyết xong toàn bộ. Việc điều động 74 đại đội và tấn công Hoàng Sa vẫn chưa có kết quả.
Bắt đầu,
Cuối tháng 12/1973, Công ty đánh bắt hải sản Nam Hải cử một đội 2 tàu cá có vũ trang 402, 407 và 97 ngư dân TQ dưới sự lãnh dạo của Phó giám đốc vào đánh cá ở vùng biển nhóm đảo Nguyệt Thiềm, tập trung chính ở đảo Quang Hòa, cùng đi có nhóm hậu cần.
Ngày 10/1/1974, Một nhóm ngư dân TQ lên đảo Cam Tuyền cắm cờ và bảng gỗ chứng tỏ chủ quyền TQ.
Ngày 11/1/1974, Trung Quốc tuyên bố phản đối VNCH và khẳng định lại các yêu sách của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngày 12/1/1974, Chính phủ VNCH tuyên bố bác bỏ yêu sách của Trung Quốc.
Cũng theo báo Thanh niên:
"Mãi tới ngày 14.1.1974, căn cứ Ngọc Lâm mới lần đầu tiên thu thập được thông tin về tình hình Hoàng Sa thông qua kênh chính thống. Cũng ngày đó, hạm đội Nam Hải nhận được tin báo rằng tàu chiến của quân đội miền Nam Việt Nam đang hoạt động về phía đông ở vịnh Cam Ranh và thành phố Đà Nẵng, có khả năng sẽ tới Hoàng Sa, nên lệnh cho căn cứ Ngọc Lâm tổ chức một chuyến tuần tra Hoàng Sa, cùng các tàu đánh cá đối phó với quân đội miền Nam Việt Nam.
Lúc này, lãnh đạo của căn cứ hải quân Ngọc Lâm và các cấp đang ở Trạm Giang để tham gia hội nghị tập huấn quân sự thường niên của Hạm đội Nam Hải. Chỉ có phó tư lệnh căn cứ Ngọc Lâm là Ngụy Minh Sâm và Hồ Sinh Huy đều ở lại căn cứ. Độ nhạy bén nghề nghiệp đã khiến hai người sớm đánh hơi thấy mùi chiến tranh tiềm ẩn. Vì vậy công tác chuẩn bị đã được triển khai, hai người sớm phân chia trách nhiệm, họ Ngụy sẽ ra biển chỉ huy, họ Hồ sẽ ở nhà giữ căn cứ.
Năm 1974, lực lượng của hạm đội Nam Hải còn rất mỏng tới mức có thể coi là nghèo nàn. Căn cứ hải quân Ngọc Lâm và cũng là toàn đội tàu chỉ có 4 tàu hộ tống có sức chiến đấu nhất. Con tàu Nam Ninh đã bị hư hỏng nặng đang phải sửa chữa tại Quảng Châu. Ba tàu hộ tống loại mới khác (mang số hiệu 214, 231, 232) có pháo 65 ly, do gặp sự cố hỏng hóc tại các bộ phận như bếp, đài phát thanh, thiết bị truyền tin… cũng đã định ngày chuẩn bị quay về xưởng sửa chữa. Các tàu chiến còn lại, tàu phóng ngư lôi trọng tải nhỏ, phạm vi trên biển rất hạn chế, khó có thể tác chiến ngoài khơi xa. Như vậy họ Ngụy chỉ còn trong tay 6 tàu săn ngầm lớp 6604, mà lúc bấy giờ đang chuẩn bị “về hưu” và được thay bởi tàu săn ngầm mới lớp 037. Các tàu 6604 vốn chỉ được giữ lại để luyện tập.
Thế rồi vào thời khắc đó, cuộc đời chúng bị đổi ngoặt. Hải quân Trung Quốc đã lựa ra 2 chiếc tàu săn ngầm có tình trạng tốt nhất, dồn hết thiết bị còn tốt lại rồi ráp vào hai tàu mang số hiệu 271 và 274 để tới tham gia trận đánh tại Hoàng Sa."
Ngày 14/1/1974, Hạm đội 77 Tây Sa yêu cầu Căn cứ hải quân Ngọc Lâm (Quảng Tây) tổ chức một cuộc tuần tra Tây Sa - đây là sự kiện mới kể từ tháng 3 năm 1959.
Ngày 15/1/1974, Tàu cá vũ trang 903 chở thêm ngư dân vào đảo Cam Tuyền.
Hai chiếc tàu cá vũ trang 402 và 407 đã được các chiến hạm VNCH nhận dạng từ ngày 16/1 và theo Gerald E.Kosh - "Có bằng chứng cho thấy sớm nhất là vào khoảng trung tuần tháng 12 - và có thể trước đó vào khoảng tháng 9 - TC đã tích cực huấn luyện lực lượng tấn công của họ cho cuộc hành quân vào ngày 20 tháng 1 năm 1974. Trong thời gian 10 ngày, khoảng hạ tuần tháng 12, 6 tàu đánh cá (loại tàu đánh cá NanYu mang số 401, 402, 405, 406, 407 và 408) đã được quan sát hoạt động từ hải cảng và cũng là căn cứ hải quân Bắc Hải (Quảng Đông). Những tàu đánh cá hoạt động từng cặp rời hải cảng vào mỗi buổi sáng và trở về vào mỗi buổi chiều. "
---------
Mốc thời gian và hoạt động của lực lượng TQ nói trên là theo phía tài liệu TQ, không có ghi nhận từ phía VNCH. Đây là một động thái đáng ngờ, tần suất hoạt động của lực lương TQ tăng lên nhưng không có tin nào cho thấy quân VNCH đã biết trước hoặc nghi ngờ. Khi được tàu HQ-16 báo về Bộ tư lệnh ở đất liền, tuy phía VNCH có cảnh giác nhưng không nghĩ rằng TQ dùng mặt trận ngoại giao mở đường cho hoạt động quân sự tiếp theo - Đó là bước đầu của kế hoạch lấn chiếm.
Trước 15/1/1974, Trung Quốc âm thầm triển khai một số tàu dưới hình thức tàu đánh cá bí mật xâm nhập, đổ bộ lực lượng bán vũ trang lên các đảo mà quân VNCH không đồn trú để cắm cờ, xây nhà tạm...Đến 16/1/1974, Tàu HQ-16 làm nhiệm vụ theo định kỳ chở trung đội Đại phương để thay quân đồn trú và toán công binh khảo sát làm sân bay ở đảo Hoàng Sa thì tình cờ phát hiện sự có mặt bất thường của lực lượng TQ ở nhóm đảo Nguyệt Thiềm, báo cáo về Bộ Tư lệnh Hải quân...
Về phía Trung Quốc, qua tài liệu được tiết lộ qua Dương Danh Dy dịch, tuy còn hạn chế về thông tin nhưng cũng cho ta hình dung. Trương Vĩ Văn viết:
Một ngày tháng 1 năm 1974. Đã 10 giờ sáng, nhưng Mao Trạch Đông vẫn chưa ngủ dậy. Lúc đó một báo cáo được đặt hết sức cẩn thận lên chiếc kệ đầu giường ông. Báo cáo này do Chu Ân Lai, Thủ tướng Quốc Vụ viện, Diệp Kiếm Anh, Phó chủ tịch Quân ủy TW đưa tới. Báo cáo nêu: trong thời gian gần đây sự kiện quân đội Nam Việt xâm phạm chủ quyền nước ta tại vùng biển quần đảo Vĩnh Lạc tại Tây Sa càng ngày càng dữ dội…, đồng thời nhằm thẳng vào hành vi xâm lược của quân đội Nam Việt, báo cáo đã đề xuất đối sách nên áp dụng, tức thông qua tăng cường tuần tra và các biện pháp quân sự tương ứng, bảo vệ quần đảo Tây Sa.
Sau khi ngủ dậy, Mao Trạch Đông đọc qua báo cáo rồi chìm sâu vào trong hồi ức và suy nghĩ sâu xa. Ông khá quen thuộc tình hình quần đảo Tây Sa, như nắm trong lòng bàn tay mọi động hướng tại Tây Sa của quân đội Nam Việt trong mấy năm gần đây"
Chính phủ Trung Quốc đưa ra loại phản ứng như thế nào, đều có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với việc ngăn chặn các loại chủ nghĩa bá quyền và chủ nghĩa bành trướng của nhà đương cục Nam Việt và các nước xung quanh nước ta, bảo vệ hòa bình và an ninh vùng châu Á, Thái Bình Dương và ổn định cục diện thế giới.
Nghĩ đến những điều đó, Mao Trạch Đông cầm lấy bút, trịnh trọng phê hai chữ :đồng ý, vào báo cáo do Chu Ân Lai và Diệp Kiếm Anh trình, rồi, tự nói với mình: “xem ra không đánh một trận, không thể bảo vệ quyền lợi hải dương của Trung Quốc! Ý kiến của Ân Lai, Kiếm Anh rất đúng!”
Sau khi Mao Trạch Đông đưa ra quyết sách, Chu Ân Lai và lãnh đạo quân ủy lập tức chế định phương án tác chiến, điều động và bố trí binh lực, một cuộc chiến tranh chính nghĩa bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ tôn nghiêm và thần thánh của Tổ quốc lặng lẽ kéo màn.
Đứng trước hành động khiêu chiến leo thang từng bước của quân đội Nam Việt, sau khi được Mao Trạch Đông phê đồng ý, ngay trong ngày 17 tháng 1, bộ đội, Hạm đội Nam Hải của ta đang chấp hành nhiệm vụ tuần tra tại vùng biển Nam Hải Trung Quốc, tuân theo mệnh lệnh của Quân ủy trung ương đã hiệp đồng với dân quân vũ trang do quân khu Hải Nam cử ra, cùng tiến vào đóng tại ba đảo Tấn Liễu, Thâm Hàng và Quảng Kim của quần đảo Tây Sa.
Cùng với việc này, Thủ tướng Chu Ân Lai cũng bắt đầu bận rộn căng thẳng: trước hết, thân tự gọi điện cho Cục Tác chiến, hỏi tường tận tình hình quần đảo Tây Sa và điều kiện khi không có công sự; tiếp đó lại tự cầm bút sửa chữa phương án do Cục Tác chiến thảo thay Quân ủy, phê và trả lời Quân khu Quảng Châu việc điều động, sử dụng binh lực.
20 giờ cùng ngày, được sự ủy nhiệm và ủng hộ của Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai chủ trì Hội nghị về vấn đề quần đảo Tây Sa do Trung ương Đảng, Quốc Vụ viện, Quân ủy trung ương và người phụ trách các mặt có liên quan họp tại Bắc Kinh, đã có đánh giá đầy đủ việc có thể phát sinh vũ trang xung đột. Đêm khuya, Chu Ân Lai chủ trì Hội nghị Bộ Chính trị, và đề nghị Quân ủy trung ương thành lập tiểu tổ 5 người do Diệp Kiếm Anh đứng đầu và Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều, Đặng Tiểu Bình, Trần Tích Liên tham gia, thảo luận và xử lý việc lớn của Quân ủy và công việc tác chiến khẩn cấp. Một lúc sau, ông cùng Vương Hồng Văn liên danh báo cáo lên Mao Trạch Đông, một lần nữa Mao Trạch Đông biểu thị đồng ý.
Lúc này căn cứ vào mệnh lệnh của Quân ủy trung ương, Quân khu Quảng Châu của ta cũng nhanh chóng đưa ra quyết định tương ứng, một mặt cử tàu số 396, 389 Đại đội 10 thuộc Hạm đội quét thủy lôi căn cứ Quảng Châu của Hạm đội Nam Hải và tàu số 271, 274 thuộc Đại đội 73 săn tàu ngầm căn cứ Du Lâm, tiến vào vùng biển gần quần đảo Vĩnh Lạc, Tây Sa chấp hành nhiệm vụ tuần tra, và cử 4 Trung đội dân quân lần lượt tiến vào đóng tại ba đảo Tấn Liễu, Thâm Hàng, Quảng Kim; một mặt “lại cử tàu số 281, 282 Đại đội 74 săn tàu ngầm tiến vào vùng gần đảo Vĩnh Hưng, Tây Sa chấp hành nhiệm vụ chi viện; đồng thời mệnh lệnh Trung đoàn 22 không quân Hạm đội Nam Hải cử hai chiếc máy bay bay tuần tra trinh sát trên vùng trời quần đảo Vĩnh Lạc đồng thời ra lệnh cho không quân Quân khu cử một bộ phận binh lực tăng viện”.
Để đánh tốt trận này, Chu Ân Lai đã kịp thời chuyển đạt quyết định của Hội nghị Bộ Chính trị đã được Mao Trạch Đông đồng ý. Sáng sớm ngày 19, Chu Ân Lai nói với Diệp Kiếm Anh triệu tập Tiểu tổ quân sự 5 người (sau tăng thêm Tô Chấn Hoa) nghiên cứu, thảo luận phương án tác chiến cụ thể quần đảo Tây Sa, bố trí công việc đánh trả tự vệ. Sau đó, ông lại gọi điện cho Bộ Tổng Tham mưu: “ Tình hình Tây Sa phát triển rất nhanh, sợ rằng ngày hôm nay có khả năng đánh trận, vì vậy sau khi được trung ương nghiên cứu, quyết định: do 6 người Diệp Kiếm Anh, Đặng Tiểu Bình, Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều, Trần Tích Liên, Tô Chấn Hoa tổ thành Tổ lãnh đạo, thay trung ương Đảng xử lý vấn đề tác chiến Tây Sa, do đồng chí Diệp Kiếm Anh, Đặng Tiểu Bình phụ trách chung
Ngay sáng hôm đó, Diệp, Đặng và các thành viên Tiểu tổ lãnh đạo đã tới Cục Tác chiến trực tiếp bố trí và chỉ huy hành động quân sự đả kích quân hạm xâm nhập Nam Việt."
Tổ chỉ huy họp bàn việc đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974.
Từ phải qua: Đặng Tiểu Bình, Diệp Kiếm Anh...
Tài liệu không ghi thời gian, nhưng căn cứ vào nội dung, đoán có thể là ngày 15 hoặc 16/1, trước ngày Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu nắm tình hình và chỉ thị đối sách cho Bộ tư lệnh HQ Vùng I Duyên hải tổ chức thực hiện.
Sau khi được báo cáo có tàu Trung Quốc xuất hiện trên vùng quần đảo Hoàng Sa, Phó Đề Đốc Thoại có trình với các tướng lãnh và Tổng Thống Thiệu. Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại - Tư lệnh Vùng I duyên Hải viết trong hồi ký:
"... Ðúng 08 giờ sáng hôm sau, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và phái đoàn, gồm có Trung Tướng Lê Nguyên Khang, Tổng Tham Mưu Phó; Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lịnh Quân Ðoàn I; Chuẩn tướng Trần Ðình Thọ, Trưởng Phòng 3 Bộ Tổng Tham Mưu, đến bộ tư lịnh Vùng 1 Duyên Hải bằng xe. Tôi đưa tất cả vào phòng thuyết trình. Tôi trình bày cặn kẽ địa hình địa thế của các đảo Hoàng Sa, lịch sử của các hải đảo này và sau cùng những diễn tiến trong mấy ngày qua và lực lượng quân sự TC và Việt Nam trên biển cũng như trên các đảo. Tôi nhấn mạnh việc chiến hạm Việt Nam cố gắng mời chiến hạm TC rời khỏi lãnh hải một cách ôn hoà nhưng tình hình trong 24 giờ qua cho thấy TC có ý định khiêu khích.
Sau khi nghe tôi trình bày xong, Tổng Thống Thiệu lấy bút giấy ra viết liên tục trong khoảng 15 phút. Sau khi viết xong, ông gọi tôi đến trước mặt ông và yêu cầu tôi đọc mấy trang giấy đó. Tổng Thống Thiệu nói : “Anh Thoại đến đây và đọc trước mặt tôi đây, có gì không rõ ràng cho tôi biết ngay từ bây giờ” (1). Trên đầu trang giấy có mấy chữ “Chỉ thị cho Tư Lịnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải”. Những chữ này làm tôi hơi khó chịu vì ông Thiệu không ghi Tư Lịnh Quân Khu I hay Tư Lịnh Hải Quân mà lại đề thẳng chức vụ của tôi. Lúc đó tôi không nghĩ ra rằng với chức vụ Tổng Tư Lệnh Quân Ðội, ông có toàn quyền chỉ thị trực tiếp mỗi đơn vị trưởng trong quân đội. Trong trang chót có đoạn “Chỉ thị cho Thủ Tướng Chánh Phủ”. Bản chánh của thủ bút Tổng Thống Thiệu tôi giữ mãi cho đến đầu tháng Năm, 1975, khi tôi bi mất cắp chiếc cặp lúc đến Fort Chaffee ở Arkansas, Hoa Kỳ (2). Tôi chắc chắn bản gởi cho Thủ tướng Trần Thiện Khiêm vẫn còn được lưu lại đâu đó sau khi Sài Gòn thất thủ.
Sau khi trao thủ bút cho tôi, Tổng Thống Thiệu hỏi các vị tướng lãnh bộ binh hiện diện có ý kiến gì không. Không ai trả lời. Ông nói tiếp : “Chúng ta không để mất một tấc đất nào cả (3)".
Ông Hồ Văn Kỳ Thoại trả lời trong cuộc phỏng vấn:
"Đêm 16 Tháng 1, 1974 trong công tác Hải quân thường lệ, tôi được báo cáo có nhiều ngư thuyền lạ và có dấu hiệu của một vài hoạt động trên đảo. Lúc đó tôi đang dùng cơm với Tổng Thống Thiệu và một số tướng lãnh ở Mỹ Khê, Đà Nẳng. Tôi có trình cho Tư Lệnh Quân Khu I , tức là Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, cũng có mặt tại bữa cơm đó. Trung Tướng Trưởng bảo tôi tới trình ngay với Tổng Thống Thiệu. Tổng Thống Thiệu ra lệnh tôi sáng ngày mai tức 17 Tháng 1đến Bộ Tư Lệnh Hải Quân vùng I Duyên Hải để thuyết trình rồi Tổng Thống Thiệu sẽ cho chỉ thị.
Tổng Thống đã nghe tôi tường trình tình hình đêm trước, tôi tin chắc là Tổng Thống đã suy nghĩ kỹ. Sáng hôm sau, trong vòng 45 phút, trước khi quyết định, Tổng Thống có hỏi rất nhiều câu hỏi, và có bàn với các vị tướng lãnh hiện diện trước khi lấy giấy mực ra viết thủ bút cho tôi thi hành. Hơn nữa tôi cũng xin nhắc lại là quyết định của Tổng Thống không phải cho nổ súng để tấn công, tiêu diệt hạm đội của Trung Cộng. Chỉ thị của Tổng Thống là mời các ngư thuyền cũng như chiến hạm lạ ra khỏi lãnh hải của chúng ta. Lúc đó tôi cũng chưa chắc những chiến hạm hiện diện đó là của Trung Cộng. Tổng Thống chỉ thị là làm thế nào để chứng minh cái chủ quyền quốc gia của chúng ta trên các hải đảo bằng mọi biện pháp ôn hòa. Nếu họ không tuân lệnh thì bắt buộc mình phải dùng võ lực để mời họ ra.
Trước khi cho nổ súng chúng tôi cũng đã cho chiến hạm của chúng tôi đuổi họ ra, nhưng sự khiêu khích của họ càng ngày càng nhiều hơn, cho nên Cựu Đại Tá Hà Văn Ngạc có bàn với tôi là phải đi tới quyết định “ khai hỏa”.
Tuyết Mai: Thưa Đô Đốc như vậy thì trận chiến Hoàng Sa lúc đầu dự tính chỉ đuổi những ngư thuyền và chiến hạm ra khỏi lãnh hải, chứ không dự tính trước sẽ có một cuộc hành quân, một trận hải chiến dữ dội giữa Hải Quân VNCH và Hải Quân TQ?
Hồ Văn Kỳ Thoại: Không , không. Tôi nhấn mạnh là không có một cuộc hành quân gì cả. Hôm 18/1 tôi có ra lệnh bằng giấy trắng mực đen cho Đại Tá Hà Văn Ngạc có thể thi hành nhiệm vụ có giấy tờ, nhưng đó không phải là cuộc hành quân mà chỉ là việc làm rất là thường xuyên."
TT Thiệu rời Bộ Tư Lịnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải, sau khi ra chỉ thị về biện pháp đối phó với Trung Quốc.
Đại tá Hà Văn Ngạc - Hải đội trưởng, chỉ huy trực tiếp trận hải chiến kể:
"Sáng sớm ngày 17, không kịp thông-báo đến Tư-lệnh Hạm-đội; tôi lên phi-trưởng Tân-sơn-Nhứt và đến thẳng ngay Trạm hàng-không quân-sự đi Đà Nẵng... đến BTL/HQ Vùng I duyên-hải tôi mới được biết chi-tiết những gì đang xẩy ra tại Hoàng-Sa... Tư-lệnh HQ vùng I duyên-hải cũng cho tôi hay và giơ một tờ giấy nhỏ nói là ông có thủ-bút của Tổng-thống vừa tới thăm bản-doanh trước đây, nhưng tôi không hỏi về chi-tiết cũng như xin xem thủ-bút vì tôi nghĩ đó là chỉ-thị riêng tư giữa Tổng-Thống và một vị Tướng-lãnh. Vị Tư-lệnh này còn cho tôi hai chọn-lựa: một là chỉ-huy các chiến-hạm ngay tại Bộ-Tư-lệnh Vùng, hai là đích-thân trên chiến-hạm. Tôi đáp trình ngay là: Tôi sẽ đi theo các đơn-vị của tôi.
Ðến khoảng buổi chiều thì Tư-lệnh vùng I duyên-hải còn hỏi tôi có cần thêm gì, tôi trình xin thêm một chiến-hạm nữa vì cần hai chiếc khi di-chuyển trong trường-hợp bị tấn-công trên hải-trình, chứ không phải vì số lượng chiến-hạm Trung-cộng đang có mặt tại Hoàng-Sa... Tôi dùng cơm chiều gia-đình cùng Tư-lệnh HQ Vùng tại tư-thất trong khi chờ đợi Tuần-dương-hạm HQ5 tới. Sau bữa ăn, Tư-lệnh HQ Vùng đích-thân đi bộ tiễn-chân tôi ra cầu quân-cảng. Sau trận-chiến, vị Ðô-đốc này có thổ-lộ cùng tôi là ông đã tưởng đó là bữa cơm cuối cùng của ông với tôi. Như vậy là trận hải-chiến đã dự-liệu là sẽ có thể xẩy ra, và chắc vị Ðô-đốc đã mật-trình về Tư-lệnh Hải-quân thường có mặt tại Bộ-Tư-lệnh."
Tác giả Trần Đỗ Cẩm phân tích ý đồ của TQ:
"Để mở đầu kế hoạch lấn chiếm, trên mặt ngoại giao, Bộ Ngoại Giao Trung Cộng đột nhiên lên tiếng đòi chủ quyền tại Hoàng Sa, đồng thời lén lút cho ngư thuyền võ trang chở quân lính giả dạng dân đánh cá đổ bộ lên một số đảo do VNCH kiểm soát từ lâu trong vùng Hoàng Sa. Dự đoán thế nào phía VNCH cũng phản ứng mạnh mẽ, chính phủ Trung Cộng từ các giới chức cao cấp nhất như Chủ Tịch Mao Trạch Đông đến Đặng Tiểu Bình, Châu Ân Lai và toàn bộ Quân Ủy Trung Ương đã đồng thanh quyết định sẽ dùng biện pháp quân sự để đánh chiếm Hoàng Sa từ tay VNCH nếu cần.
Khởi đầu, họ đổ quân lên các đảo, đồng thời cho tàu bè và chiến hạm khiêu khích lực lượng VNCH. Nếu các chiến hạm VNCH lặng lẽ cúi đầu bỏ đi như lời một viên chứa Hoa Kỳ tại Việt Nam đe dọa "nếu các chiến hạm Việt Nam nổ súng tại Hoàng Sa, Hải Quân VNCH sẽ bị xoá tên ngay," Trung Cộng sẽ ngang nhiên chiếm Hoàng Sa theo chiến thuật tiệm tiến "tầm ăn dâu" lấy từng đảo một như họ làm tại Trường Sa sau này. Ngược lại, nếu Việt Nam Cộng Hòa tham chiến, dù các Hải Quân VNCH có chiến thắng đánh chìm tất cả các chiến hạm Trung Cộng tại chỗ nhưng vẫn không thể giữ được Hoàng Sa vì lực lượng tăng viện Trung Cộng gồm nhiều chiến hạm tối tân và có cả phi cơ tham chiến sẽ kéo tới đánh chìm các chiến hạm VNCH dễ dàng. Vì vậy, khi TDH Lý Thường Kiệt được phái ra Hoàng Sa vào ngày 15 tháng 1 năm 1974 để thám sát, chính phủ Trung Cộng liền lập tức xử dụng phương tiện quân sự.
Như vậy, chúng ta thấy rõ sách lược bành trướng tại Biển Đông đã được Trung Cộng chuẩn bị kỹ càng, khởi đầu bằng việc gây hấn tiến chiếm Hoàng Sa. Đây là một quốc sách quan trọng đã được hoạch định từ lâu nên trận hải chiến tại Hoàng Sa đã được cố ý dự trù, tiên liệu, chuẩn bị và thiết kế chu đáo. Về phía VNCH, trong lúc phải đối đầu trong trận chiến một mất một còn với Việt Cộng trong nội địa, việc tham chiến tại Hoàng Sa chỉ là một sự tình cờ, cũng như TDH Lý Thường Kiệt HQ-16 ra Hoàng Sa với nhiệm vụ chính chở phái đoàn Công Binh thám sát thiết lập phi trường, tình cờ phát hiện ngư thuyền và quân Trung Cộng trong vùng. Sau đó, VNCH mới hối hả phái các chiến hạm khác ra tăng cường.
Điều đó cho thấy sách lược bành trướng tại Biển Đông đã được Trung Cộng chuẩn bị kỹ càng, khởi đầu bằng việc gây hấn tiến chiếm Hoàng Sa. Đây là một quốc sách quan trọng đã được hoạch định từ lâu đã được cố ý dự trù, tiên liệu, chuẩn bị và thiết kế chu đáo. Về phía VNCH, trong lúc phải đối đầu trong trận chiến một mất một còn với Việt Cộng trong nội địa, việc tham chiến tại Hoàng Sa chỉ là một sự tình cờ, cũng như TDH Lý Thường Kiệt HQ-16 ra Hoàng Sa với nhiệm vụ chính chở phái đoàn Công Binh thám sát thiết lập phi trường, tình cờ phát hiện ngư thuyền và quân Trung Cộng trong vùng. Sau đó, VNCH mới hối hả phái các chiến hạm khác ra tăng cường." nên trận hải chiến tại Hoàng Sa."
___________
Qua những gì được biết, cho thấy người lãnh đạo cao nhất của TQ để tâm nghiên cứu kỹ từ trước chờ cơ hội cho quân đội ra tay, trong khi đó Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và bộ tham mưu gần như không quan tâm chỉ biết giữ chủ quyền lãnh thổ - cái đang có.
Nó chứng tỏ sau hiệp định Paris, Mỹ bắt đầu rút khỏi VN thì TQ đã hình thành ý đồ thôn tính nốt nhóm đảo Nguyệt Thiềm còn lại trong quần đảo Hoàng Sa, vấn đề còn lại là thời cơ hội đủ 3 yếu tố: thiên thời , địa lợi, nhân hòa. Họ chọn thời cơ khi biết Mỹ sẽ không can dự nếu xảy ra tranh chấp, quân đội VNCH tỏ ra yếu thế, đang bị quân đội NDVN tổng phản công lấn lướt trên các mặt trận đất liền.
Trước ngày 17, Chủ tịch Mao Trạch Đông phê chuẩn đồng ý với kế hoạch và nói: xem ra không đánh một trận không xong! với sự đồng thuận của một tập thể lãnh đạo. Hôm sau về phía VNCH, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu mới quyết định: ra lệnh làm thế nào để chứng minh cái chủ quyền quốc gia, yêu cầu họ ra khỏi họ ra khỏi lãnh hải, nếu thì bắt buộc mình phải dùng võ lực, tất nhiên Tổng thống đã có sự tham vấn các sĩ quan tham mưu cao cấp của mình.
Như vậy, thể hiện TQ đã đi trước một bước trong chủ trương dùng biện pháp rắn để giải quyết vấn đề và lập trường của VNCH có vẻ ôn hòa hơn, dùng võ lực là điều "cưc chẳng đã".
Tuy vậy điều đáng lưu ý trong đối sách khôn ngoan của TQ là đưa lực lượng dân quân bán vũ trang bí mật đi trước dưới sự hổ trợ của tàu chiến hải quân ở vòng ngoài để hạn chế va chạm trực diện với lực lượng đồn trù và hải quân VNCH có nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền ở đây và đồng thờ tránh dư luận thế giới lên án xâm lược nếu tấn công trước về mặt quân sự. Nhưng họ sẵn sàng chấp nhận va chạm nếu tình hình tiến triển bất lợi, đụng độ quân sự giữa hai bên nằm trong dự kiến của họ.
Giả định hai tình huống:
- Nếu lực lượng dân quân bí mật xâm nhập các đảo thành công, cắm cờ, dựng nhà tạm... làm bằng chứng chủ quyền và quân VNCH không phát hiện, không có phản ứng thì họ sẽ tăng cường thêm quân chủ lực xây dựng công sự phòng thủ, xem như họ lấn thêm được ít nhất là 4 đảo: Duy Mộng, Quang Hòa, Vĩnh Lạc, Cam Tuyền.
Về tinh thần chỉ đạo,
Đây là một âm mưu tạo cớ để gây hấn, vì trước đó mọi việc diễn ra bình thường, quân VNCH không có hoạt động gì mới, ngoài 25 quân nhân đồn trú một chỗ như thường lệ ở đảo Hoàng Sa.
Chỉ thị mật của Bộ Ngoại giao yêu cầu khảo sát tài liệu về Hoàng Sa và Trường Sa trong những ngày tết năm 1974
Trong số hình ảnh triển lãm ấy có 1 bản công văn của Bộ Ngoại giao, chữ đánh máy, có đóng dấu Mật và Hỏa tốc, đề ngày 22-1-1974, gửi cho các nơi như này: – Đ/c Giám đốc Thư viện Nhà nước; Đ/c Giám đốc Thư viện Khoa học xã hội; Đ/c Cục trưởng cục Lưu trữ; Đ/c Viện trưởng Viện Sử học.
Nội dung là:
Thủ tướng Chính phủ cần tư liệu về vấn đề chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Tây Sa và Nam Sa.
Đề nghị đồng chí bố trí cán bộ làm việc trong mấy ngày Tết sưu tầm gấp các tư liệu, bản đồ về vấn đề này để trong vài ba ngày kịp trình lên đồng chí Thủ tướng.
Chúng tôi xin cử cán bộ đến trực tiếp trình bày với các đồng chí để nói rõ thêm về vấn đề này.
Công văn có dấu Bộ Ngoại giao, chữ ký của Thứ trưởng Hoàng Văn Tiến.
Ngoài ra, bên cạnh còn có bút tích ghi bằng mực màu đen: Đề nghị anh Chi tích cực thực hiện giúp. Chữ ký bên dưới đọc có lẽ là “Văn Tạo”.
Đây là công văn ra đời 3 ngày sau khi Hoàng Sa bị Trung Quốc tiến chiếm (19-1-1974). Nội dung thể hiện không khí gấp gáp của Chính phủ thông qua ý muốn của Thủ tướng cần có tư liệu, bản đồ thể hiện chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nên đã chỉ thị các cơ quan liên quan tìm ngay trong mấy ngày tết.
Ảnh chụp công văn này khi đưa triển lãm được chú thích là: “Chỉ thị mật của Bộ Ngoại giao yêu cầu khảo sát tài liệu về Hoàng Sa và Trường Sa trong những ngày tết năm 1974”.
Theo: Lamdien
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét