Tìm kiếm Blog này

Thứ Tư, 23 tháng 12, 2015

Chuyện 15 Biệt hải (HQ-16) đào thoát từ Vĩnh lạc

Biệt Hải trên vùng biển bão tố
Phạm Phong Dinh

Sau khi hay tin 15 lính Biệt Hải thuộc Tuần Dương Hạm HQ 16 Lý Thường Kiệt được một ngư thuyền cứu vớt tại eo biển Qui Nhơn, cách đảo Cù Lao Xanh (hay còn gọi là Mũi Yến) 55 cây số về phía Đông và vẫn còn ở ngoài hải phận quốc tế, nhiều phóng viên quân đội đã chạy đôn chạy đáo tìm mọi cách để đến gặp và nhìn tận mắt những người lính biển đầu tiên đã viết những dòng hải sử chiến đấu chống quân Trung cộng, kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt Nam. Chỉ với 15 người lính, các anh đã phải đối đầu với một lực lượng hung hãn địch gấp gần 20 lần hơn trên đảo Vĩnh Lạc. Trong lúc những chiến hạm của Hải Quân Việt Nam còn đang giáp chiến với hải quân Trung cộng, tiếng đại bác của hai bên nổ rền mặt đại dương, thì 15 chiến sĩ Biệt Hải đã kiệt liệt đối súng với hàng trăm lính bộ chiến của Trung cộng trên hòn đảo nhỏ này. Giữa cơn lửa đạn mù rời, toán Biệt Hải nhận được lệnh rút bỏ Vĩnh Lạc, vì cấp chỉ huy mặt trận Hoàng Sa không thể hy sinh oan uổng những đoàn viên ưu tú nhất của quân chủng. Không có một chiếc tàu nào đến đón, vì lúc đó 14 tàu chiến Trung cộng đang vây đánh Tuần Dương Hạm HQ 16 Lý Thường Kiệt, Tuần Dương Hạm HQ 5 Trần Bình Trọng, Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ 10 và Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư HQ 4. Chiếc xuồng đổ bộ giờ đây đã trở thành chiếc phao cứu sinh duy nhất của toán chiến sĩ lạc loài này. Cuộc hành trình vượt chết trên vùng biển bão tố bắt đầu.

Một toán thám sát Biệt Hải được chiếc HQ 16 Lý Thường Kiệt thả xuống gần đảo Vĩnh Lạc, rồi các anh dùng thuyền nhỏ chèo vào và đổ bộ lên bờ biển. Đảo Vĩnh Lạc (còn gọi là đảo Quang Ảnh hay Money) thuộc chủ quyền Việt Nam từ thời triều đình nhà Nguyễn, nhưng đã bị hải quân Đài Loan lợi dụng lúc ra giải giới quân Nhật khi Nhật đầu hàng quân Đồng Minh ngày 21.8.1945, đã ngang ngược chiếm lấy và tuyên bố chủ quyền từ năm 1946. Đến lượt Trung cộng đoạt lấy đảo Vĩnh Lạc cuối năm 1949, sau khi đánh bại quân Quốc Dân Đảng Trung Hoa ở lục địa. Đảo Vĩnh Lạc, cũng như hầu hết các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa (còn gọi là Paracel) có cấu tạo san hô rất kiên cố, nên địa thế rất khó khăn cho tàu bè cặp bến. Đây là đảo có nhiều cây cối và là nơi chim biển đến sinh sống nhiều nhất. Số phân phosphate từ phân chim ước lượng phải gần 1,200,000 tấn. Đó là một trong những lý do tại sao thu hút lòng tham lam bất chính của cả Đài Loan và Trung cộng.

Trung Úy Lâm Trí Liêm, Trưởng Toán Biệt Hải, khi anh dẫn 15 chiến sĩ đổ bộ lên Vĩnh Lạc, đã khám phá bốn ngôi mộ với bốn cái bia đá do Trung cộng dựng nên để xác nhận chủ quyền của chúng. Những ngôi mộ chẳng biết có bộ xương nào ở dưới hay không, nhưng những tấm bia chỉ là biểu trưng của sự giả trá quỉ quái của bọn cộng sản, với dụng ý chứng tỏ đã có dấu chân của chúng từ lâu. Trung Úy Liêm ra lệnh cho đoàn viên Biệt Hải nhổ những tấm bia đá này chuyển xuống HQ 16 để chuyên viên của ta dịch sang Việt ngữ xem chúng khắc cái quái gì trên đó, rồi đem về Sài Gòn. Ngoài nhiệm vụ phá hủy những di chứng giả tạo của Trung cộng, Toán Biệt Hải còn có công tác cắm cờ Việt Nam và bảo vệ cờ để xác nhận chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa.

Khi Trung Úy Liêm cùng chiến sĩ Biệt Hải của anh đặt chân lên đảo Vĩnh Lạc, hòn đảo hoàn toàn hoang vắng không một bóng người, chỉ có mỗi bốn nấm mộ nằm chơ vơ giữa vùng trời nước. Quân ta nằm bố trí trên đảo chờ chuyến tiếp tế, nhưng vì các chiến hạm còn đang theo dõi thám sát những hành động của tàu Trung cộng, nên mãi đến chiều ngày 17.1.1974 mới có tàu đến đổ xuống một khối lượng lương khô cho 93 ngày, có nghĩa là Bộ Tư Lệnh Mặt Trận Hoàng Sa của Hải Quân Đại Tá Hà Văn Ngạc đã dự định phải giữ đảo ít nhất là ba tháng. Tiếng súng hải chiến bắt đầu nổ trên vùng biển Hoàng Sa ngày 19.1.1974. Lúc đó là 10 giờ 25 sáng. Lúc 10 giờ 22 phút, một hộ tống hạm Trung cộng loại Kronstadt đã hướng mũi tàu đâm thẳng vào Khu Trục Hạm HQ 4 Trần Khánh Dư đang giữ chặt đảo Quang Hòa. HQ 4 nhận được lệnh khai hỏa từ Bộ Tư Lệnh Hải Quân ở Sài Gòn, quả đại bác đầu tiên được bắn ra sau nhiều ngày sẵn sàng tác chiến đã trúng ngay chiếc tàu giặc. Chiếc Kronstadt bị chìm xuống đáy biển. Chiếc HQ 4 bị hư hại nhẹ. Với chiến thắng nức lòng đó, những HQ 5, HQ 10 và HQ16 tuần hành chung quan các đảo Quang Hòa và Duy Mộng đồng nổ súng đánh đuổi địch. Cả một vùng Hoàng Sa ầm tiếng sấm phẫn nộ của người nước Nam. Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ 10 trúng một chiếc hỏa tiễn Styx từ chiến hạm Trung cộng bị hư hại rất nặng và chìm dần. Hải Quân Trung Tá Ngụy Văn Thà trúng đạn giặc ở cầu thang chỉ huy, đã anh dũng hy sinh, 32 chiến sĩ trên tàu bị mất liên lạc. Những thủy thủ của HQ 10 bềnh bồng giữa đại dương đến 6 giờ 30 chiều ngày 22.1.1974 thì được thương thuyền Hòa Lan KOPIONELLA vớt được 23 người, cách phía Đông Đà Nẵng 287 cây số. Sáng hôm sau, chiến hạm Việt Nam đến tiếp nhận số chiến sĩ lưu lạc này, trong số đó có thân xác của Hải Quân Đại Úy Nguyễn Mạnh Trí, Hạm Phó HQ 10, đã chết và 2 chiến sĩ bị thương.

Những chiến sĩ Biệt Hải nằm trên đảo Vĩnh Lạc nhìn về hướng Duy Mộng và Quang Hòa cách đảo chừng 34 cây số đã thấy những đốm lửa sáng lóe lên. Đoàn viên truyền tin liên lạc với Đài Khí Tượng thì được biết một tàu Trung cộng đã bị quân ta bắn trúng đang từ từ chìm xuống biển cả. Những người lính Biệt Hải reo hò vang dậy chào mừng chiến công của đồng đội. Dẫu biết rằng Hải Quân Việt Nam ở thế hạ phong về tàu chiến và vũ khí, nhưng ngay phát súng đầu, HQ 4 Trần Khánh Dư đã nhắc cho giặc Bắc nhớ lại trận hải chiến kinh hoàng ở cửa biển Vân Đồn năm 1287, Tướng Quân Trần Khánh Dư đã đánh chìm hàng trăm chiến thuyền của tướng Ô Mã Nhi và tên hải tặc Trương Văn Hổ, mà đã đẩy đạo quân 20 vạn của Thoát Hoan trên bộ vào thảm cảnh chết đói và hoàn toàn chiến bại. Giao chiến bằng tàu thường không thắng nỗi bốn chiếc HQ thời Đệ Nhị Thế Chiến của ta, Trung cộng phải hối hả điều thêm những chiến hạm tối tân Komar trang bị hỏa tiễn tầm xa. Dù vậy, các HQ của Hải Quân Việt Nam cũng đã hủy diệt thêm một tàu và làm hư hại hai chiếc khác, trước khi nhận được lệnh rút ra khỏi quần đảo Hoàng Sa sau hai giờ pháo chiến. Một kế hoạch đánh tập kích lực lượng địch vài ngày sau đó của Bộ Tư Lệnh Hải Quân Việt Nam được phác họa, nhưng đã không được thực hiện vì nhiều lý do khác nhau.

*Cuộc hải hành bằng xuồng cao su trên đại dương :

Ba ngày trấn giữ Vĩnh Lạc không thấy có Toán Thám Sát nào đến thay thế, hướng Hoàng Sa đã im tiếng súng mà trên không luôn có nhiều phi cơ rất lạ bay lượn vòng vòng, Trung Úy Liêm nhận định rằng tình hình ngày càng rất bất lợi cho đảo Vĩnh Lạc, với một nhúm chiến sĩ ít ỏi như thế này. Có tin Trung cộng đã điều chiến hạm đến tấn công Cam Tuyền và Vĩnh Lạc. Từng đợt hải pháo của tàu giặc dội ì đùng xuống một diện tích nhỏ bé của hòn đảo, rồi bốn chiếc Mig 21 và Mig 23 xuất phát từ đảo Hải Nam bay đến oanh kích dọn bãi để lính địch đổ bộ. Con số chiến hạm Trung cộng tham chiến đã lên đến 40 chiếc. Trung Úy Liêm quyết định chờ đêm tối dùng xuồng cao su thoát ra khỏi Vĩnh Lạc. Thật không may mắn cho những người lính cô đơn này, chiếc xuồng cao su lại bị lủng một lỗ nơi miệng cao su lót đáy, không biết có phải là do bởi mảnh pháo địch, nước biển tràn vào, các Biệt Hải xé vải nhét lại. Tình thế thật bi đát. Các chiến sĩ phải ngồi rải chung quanh thành ca nô, tránh ngồi tập trung ở giữa tránh tình trạng quá nặng. Trong khi quân ta âm thầm chèo ra ngoài khơi thì bỗng có quang hiệu của tàu Trung cộng gọi trở lại, nhưng Trung Úy Liêm ra lệnh cho các chiến sĩ tiếp tục hướng mũi ra biển. Thà chết vinh giữa biển cả, còn hơn là sống nhục trong lao tù cộng sản.

Chiếc xuống tiếp tục di chuyển về hướng Tây Nam. Sáu mái chèo thay nhau quạt nước. Một cái mền được dùng làm buồm căng trên một cái cột buồm bằng một cành tre tìm thấy trên đảo. Sức gió đã đẩy chiếc xuồng ọp ẹp đó xa dần đảo Vĩnh Lạc. Thêm một mảnh đất của Việt Nam đã lọt vào tay giặc. Tình hình ngày càng tồi tệ, khi lương thực đem theo đã dần cạn, quân ta phải hạn chế ăn uống, bi đát đến nỗi mỗi người chỉ có 6 muỗng nước mỗi ngày. Đến ngày thứ ba, số nước dự trữ chỉ còn có 30 lít, nhưng vì bị sóng nhồi nên đã bị đổ mất 10 lít, nên đành phải chịu giới hạn đến tối đa. Đến ngày thứ năm cuộc hành trình, chỉ uống nước mà không còn thức ăn, chiếc xuồng cao su nhấp nhô trên vùng biển động cấp 5, 6 chỗ bị lủng vẫn luôn luôn là mối đe dọa chết chóc của 15 người lính đã rất yếu sức. Ngày nắng như nung, lượng nước trong cơ thể bốc hơi nhanh chóng tạo ra hiện tượng mất nước (dehydration)., đêm thì lạnh buốt đến tận xương tủy. Chỉ có sức chịu đựng phi thường của những người lính cứng như thép Biệt Hải mới có thể sống sót qua thử thách này.

Ở giữa trùng khơi mênh mông không thấy đâu là bến bờ, dưới những cơn thịnh nộ của thủy thần đại dương, con người bé nhỏ chỉ có thể nguyện cầu xin được che chở. Thật mầu nhiệm, lời cầu nguyện đó của 15 Biệt Hải dường nhưng đã được nghe nhận từ cõi thiêng liêng. Theo lời kể của Trung Sĩ Nguyễn Trọng Tuấn, nhân viên điện tử, lúc đặt chân xuống thuyền, nhiều Biệt Hài đã khấn nguyện xin cho được an lành trở về với đất liền, với đồng bào và với quân đội để tiếp tục chiến đấu. Phép huyền diệu đó đã bắt đầu hiện ra từ ngày thứ sáu, mà tất cả chiến sĩ trên ca nô đều nhận biết như nhau.

Theo Trung Sĩ Tuấn, khi đến vùng biển động, sóng lượn theo chiều ngang rất nguy hiểm. Kinh nghiệm hải hành cho thấy rằng tàu nào gặp những con sóng ngang kiểu này cũng đều lắc lư rất dễ sợ. Nhưng có một điều kỳ dị rất khó giải thích là chiếc xuống lại lướt rất nhẹ nhàng một cách rất bình thản trên đầu ngọn sóng chết người đó. Hơn thế, nó còn chạy vo vo một mạch với tốc độ 40 cây số / giờ. Lợi dụng hiện tượng quái lạ này, anh em Biệt Hải gác mái chèo nghỉ xả hơi. Đặc biệt khi gặp sóng cao thì một lực nào đó giúp hóa giải sức giật ngay. Trung Sĩ Tuấn và nhiều Biệt Hải đã thấy một cái gì đó không phải thuyền chài, mà nó gần giống như cái kỳ cá nhú lên khỏi mặt biển, mà họ tin là cá voi, hay cá ông, những vị thần cứu mạng trong huyền thoại trên biển Nam Hải của giới thuyền bè qua lại trên vùng biển này. Có những con cá voi bị bão tấp vào bờ chết, đã được dân chài vùng biển chôn và lập đền thờ để nhớ ơn chúng đã cứu giúp ghe thuyền lúc hoạn nạn. Nhiều lúc các chiến sĩ nghe thấy nhiều tiếng lục cục dưới đáy chiếc xuồng ca nô, mái chèo thấy nhẹ hổng. Có lẽ một chú cá voi lạc loài nào đó tránh sóng bão đã tựa lưng vào cùng tồn tại với con người, mà nhờ sức mạnh thần kỳ của nó đã đưa chiếc xuồng vượt qua những con sóng chết. Hay đó có phải là phép nhiệm mầu của tạo hóa xót thương những người lính chân chính của một dân tộc tang thương vì nạn xâm lược của loài ác quỷ cộng sản. Không ai có thể giải thích được sự kiện này. Nhưng sáu mái chèo kiệt lực không thể nào đưa chiếc xuống đi phom phom 40 cây số giờ như vậy được.

Giữa cơn bão giật, nhóm chiến sĩ Biệt Hải dường như trông thấy hình dáng một chiếc thuyền, quân ta vui mừng khấn nguyện cho nó tiến đến gần hơn, thì thình lình nó quày đầu chạy ngược trở lại. Vài chiến sĩ quá nóng lòng bèn bắn vài phát súng báo động. Nhưng càng nghe tiếng súng thì chiếc thuyền đó càng phóng dữ. Chẳng mấy chốc nó đã biến mất giữa những con sóng. Nhìn lại đã thấy một dải đất mờ, đối chiếu với hải đồ, thì có lẽ chiếc xuống đã dạt về đến vùng biển Mũi Cù Lao Ré ngoài hải phận Quảng Nam. Nhưng lưỡi hái của thủy thần vẫn còn treo đung đưa trên đầu, thấy đất liền đó mà sóng vẫn kéo chiếc xuồng ra xa dần ngoài khơi, không chèo vào được. Chiến sĩ trên xuồng chắc lưỡi tiếc hùi hụi, nếu đừng bắn súng cho cá ông sợ chạy mất, thì biết đâu ngài đã đưa anh em vào gần bờ hơn. Như vậy, Toán Biệt Hải đã được cá ông đưa vào hướng Đà Nẵng trọn một đêm dài, nhưng định mệnh vẫn còn thử thách chí quật cường của những người lính Hải Quân. Cuộc hành trình về với tổ quốc tiếp diễn.

Chiếc xuống càng lúc càng đến gần hải phận Việt Nam Cộng Hòa hơn. Qua đến ngày thứ bảy, các chiến sĩ Biệt Hải trông thấy nhiều ghe thuyền xuôi ngược liền bắn súng xin tiếp cứu, nhưng những chiếc tàu này hoặc là không nghe được tiếng nổ, hoặc là do một lý do nào khác đã chạy lảng ra xa. Tình trạng sức khỏe của những Biệt Hải trên ca nô đã trở nên rất tồi tệ, các anh như những cái xác còn cử động là nhờ ở ý chí tìm sống, nước uống trên xuồng đã hết sạch từ lâu. Qua đến ngày thứ chín cuộc hải hành chiến sĩ Biệt Hải đã phải uống nước tiểu của mình. Có lúc xuồng chỉ còn cách bờ biển Sa Huỳnh thuộc tỉnh Quảng Ngãi chừng 100 hải lý, nhưng không thể nào chèo vào được, ca nô vẫn bị cuốn trở ra ngoài khơi. Chiếc buồm được điều chỉnh về hướng Đông Bắc để gió có thể thổi tạt các anh về hướng Tây Nam, hy vọng tấp vào được gần bờ hơn. Mỗi đêm các chiến sĩ Biệt Hải có trông thấy nhiều máy bay lượn vòng thật cao, có lẽ đang hoạt động không ảnh, vì ánh sáng cứ lóe lên từng hồi chiếu xuống mặt biển. Mặc dù không biết những phi cơ này thuộc quốc tịch nào, nhưng quân ta vẫn bám víu vào một hy vọng mỏng manh, nên đã bắn lên nhiều hỏa hiệu để đánh dấu mục tiêu cùng điểm đứng của chiếc ca nô. Nhưng tất cả đều vô hiệu, có lẽ vì phi cơ bay với vận tốc nhanh và quá cao nên không thể thấy rõ những trái sáng.

Sự cố gắng đó cuối cùng rồi cũng được đền bù, ngày thứ mười, chiếc xuống đã giạt vào hải phận tỉnh Bình Định, cách đảo Cù Lao Xanh thuộc xã Phước Ninh, quận Nhơn Bình chừng 30 hải lý. Với khoảng cách này cái sống đã hiện ra rõ nét, nhưng chiếc xuồng vẫn còn nằm ngoài hải phận quốc tế. Trung Úy Lâm Trí Liêm, Trưởng Toán Biệt Hải, là người còn có thể đứng vững trong tình thế tuyệt vọng nhất, anh thật xứng đáng là một cấp chỉ huy tài ba, mà đã cứu được mạng sống của tất cả đoàn viên. Anh đã trông thấy có ba chiếc ghe đánh cá đang hoạt động gần đó, mừng quá anh bắn mấy phát súng cầu cứu. Hai chiếc ghe đầu tiên hoảng sợ bỏ chạy mất, nhưng chiếc ghe thứ ba, trời ơi, nó đã lừng lững tiến đến. Các chiến sĩ Biệt Hải đã có thể trông thấy những khuôn mặt Việt Nam đen rám vì nắng gió biển khơi, những ánh mắt xúc cảm và những nụ cười quá thánh thiện. Toán ngư phủ trên ghe vội vã ném dây cột chiếc xuồng cao su kéo về Qui Nhơn. Lúc đó là khoảng 12 giờ 30 trưa ngày 21.1.1974. Những người lính Biệt Hải sẽ nhớ mãi cái ngày hồi sinh này.

Trong lúc kéo xuồng cao su trở vào hải cảng Qui Nhơn, thì các ngư phủ đã giúp chừng phân nửa số chiến sĩ leo lên thuyền của họ, số còn lại quá mệt mỏi đành phải nằm nghỉ dưới xuồng. Hạ Sĩ Nhứt Nguyễn Văn Duyên, nhân viên Quản Kho hoàn toàn kiệt sức vì hiện tượng mất nước và thiếu ăn, anh đã từ từ chìm vào cơn kích sốc, khi được đưa lên thuyền đánh cá, thì anh đã nhắm mắt ra đi.

*Điều dưỡng tại Quân Y Viện Qui Nhơn :

Hải Quân Trung Tá Nguyễn Ngọc Tĩnh, Chỉ Huy Trưởng Căn Cứ Hải Quân Qui Nhơn khi hay tin một chiếc ghe đánh cá đã vào gần đến hải cảng Qui Nhơn với 15 chiến sĩ Biệt Hải, đã lập tức cho tàu ra đón tại ngọn hải đăng đưa vào Căn Cứ và chờ phương tiện chở các anh về Quân Y Viện Qui Nhơn. Toán Biệt Hải đã được chở vào và được nằm điều dưỡng trong Trại Nội Thương 9. Bây giờ, các Biệt Hải đã đi đến cuối cuộc hành trình của mình sau hơn mười một ngày đêm tham dự cuộc hải chiến Hoàng Sa lịch sử. Nhiều chiến sĩ mê man nằm thiêm thiếp, mặc dù đã được các nhân viên Quân Y truyền cho loại huyết tương màu vàng để bổ sung nguồn protein, khoáng và nước bị mất. Các anh đã được bón cho những loại thức ăn nhẹ. Nửa căn phòng của Trại Nội Thương 9 đã được dành riêng cho nhóm 14 chiến sĩ Biệt Hải, dưới sự chăm sóc tận tụy của Quân Y và đồng đội thuộc Căn Cứ Hải Quân Qui Nhơn.

Y Sĩ Trung Tá Nguyễn Xuân Cẩm, Chỉ Huy Trưởng Quân Y Viện Qui Nhơn đích thân ra lệnh cho nhân viên Quân Y dành cho các Biệt Hải sự chăm sóc đặc biệt, vì các anh xứng đáng được đối xử như vậy. Mỗi ngày, mỗi chiến sĩ được truyền một chai huyết tương, uống sữa trứng gà ngày hai lần, cam vắt hai lần, uống nước súp xương thịt. Cuộc điều trị sang đến ngày 1.2.1974 thì các Biệt Hải được ăn cháo nấu với tim và cật, tình trạng sức khỏe của các anh đã rất khả quan. Những con người thép mà đã từng vượt qua chương trình huấn luyện “địa ngục” của Người Nhái, chẳng mấy chốc đã có thể ngồi dậy nói chuyện thoải mái và vui vẻ với tất cả những phái đoàn quân và dân tấp nập kéo nhau vào thăm hỏi, tặng quà khích lệ. Đặc biệt, các chiến sĩ Biệt Hải luôn nhớ ơn Bác Sĩ Cẩm Chỉ Huy Trưởng đã túc trực ngày đêm săn sóc các anh.

Phái đoàn đầu tiên đến thăm các chiến sĩ Vĩnh Lạc, Hoàng Sa, do Hải Quân Đại Tá Trịnh Quan Xuân, Tư Lệnh Vùng II Duyên Hải, đã dùng trực thăng đến an ủi và ủy lạo các anh với nhiều tặng vật trong ngày 31.1.1974. Đến 4 giờ chiều cùng ngày, Đại Tá Hoàng Đình Thọ, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Bình Định hướng dẫn một phái đoàn khác vào thăm. Sang ngày 1.2.1974, đến lượt Hải Quân Đại Tá Nguyễn Đức Vân, Trưởng Phòng Kế Hoạch Bộ Tư Lệnh Hải Quân, đại diện Đề Đốc Trần Văn Chơn, Tư Lệnh Hải Quân, đã đến thăm hỏi chiến sĩ trong buổi chiều và trao tặng mỗi anh số tiền 5,000 đồng. Món tiền tuy nhỏ nhưng nói lên cái tình giữa chiến hữu huynh đệ với nhau, và nó còn bày tỏ lòng tri ân của người hậu phương dành cho những chiến sĩ ở mãi tận ngoài đại dương.

* Huy chương trao tặng cho những ân nhân:

Một trong những cuộc viếng thăm có ý nghĩa nhất do Phó Đề Đốc Tư Lệnh Phó Hải Quân, hướng dẫn buổi sáng ngày 1.2.1974. Tư Lệnh Phó đã đại diện Tư Lệnh Hải Quân đến thăm hỏi, khích lệ và ủy lạo 14 chiến sĩ Biệt Hải. Tất cả các Biệt Hải đều vinh dự được tuyên dương công trạng, hãnh diện nhận mỗi người một huy chương cao quí Anh Dũng Bội Tinh. Phòng Tổng Quản Trị Hải Quân cũng trình Bộ Tư Lệnh Hải Quân đề nghị Bộ Tổng Tham Mưu thăng cấp đặc cách cho tất cả 14 Biệt Hải. Không quên những người ngư phủ đã cứu sống chiến sĩ Hoàng Sa, phái đoàn của Tư Lệnh Phó dùng tàu nhỏ di chuyển sang Căn Cứ Hải Quân Qui Nhơn để thay mặt chính quyền và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bày tỏ lòng tri ân với năm công dân Việt Nam Cộng Hòa. Năm vị ân nhân này đã cảm xúc nhận năm chiếc huy chương cao quí của Hải Quân là Hải Vụ Bội Tinh. Buổi lễ tri ân được tổ chức đơn giản nhưng trang trọng. Có thể là năm người ngư dân bình thường và vô danh này nghĩ rằng việc cứu sống những người lính Việt Nam Cộng Hòa là một việc bình thường trên biển cả với nhau. Nhưng chính là ở nghĩa cử này đã nói lên được một ý nghĩa cao cả, thắm thiết từ tận đáy lòng của họ. Đó là Tình Quân Dân gắn bó mà người lính gian nan của chúng ta qua những năm tháng phơi xương trải thịt chiến đấu bảo vệ đất nước và dân tộc đã chiếm được mối tình cảm của đồng bào ở hậu phương. Hải Vụ Bội Tinh vẫn chưa thấy đủ lòng tri ân, Hải Quân Trung Tá Lê Văn Thì, Trưởng Phòng Tổng Quản Trị, Bộ Tư Lệnh Hải Quân, đã làm tờ trình xin Bộ Tổng Tham Mưu ân thưởng cho ông Dư Thanh Long, chủ nhân chiếc thuyền đánh cá mang số 3874, huy chương Nhân Dũng Bội Tinh. Cuộc trao gắn chiếc Bội Tinh sẽ được tổ chức ngay sau khi nhận được Quyết Định của Bộ Tổng Tham Mưu. Ngoài ông Long là chủ nhân chiếc thuyền, còn lại là những thủy thủ Dư Thanh Dũng, Nguyễn Tâm, Nguyễn Ngọc, Lý Luông, tất cả đều cảm thấy sung sướng khi chính các anh đã cứu vớt kịp thời các chiến sĩ Biệt Hải. Câu chuyện tàu 3874 tìm thấy chiếc xuồng ca nô mà trên đó 14 chiến sĩ của chúng ta đã gần như kiệt lực đã do chính ông chủ tàu kể lại như sau.

Ông Dư Thanh Long đang lái chiếc thuyền đánh cá ngoài khơi Qui Nhơn, lúc đó khoảng 12 giờ 30 trưa. Ông Long chợt nhìn thấy một điểm đen ngoài xa, cách chiếc thuyền đánh cá của ông độ hai cây số. Lúc đầu ông Long tưởng là dân chài đánh cá gặp tai nạn nên dùng thúng chai chèo vào đảo Cù Lao Xanh, nhưng khi đến gần ông nhận thấy không phải, nên đã gọi những thủy thủ thức dậy để sẵn sàng cứu người, vì lúc đó anh em đang ngủ. Chiếc tàu đánh cá càng đến gần, thì nhóm ông Long đã có thể thấy rõ nhiều người ăn mặc rất lôi thôi, nếu không muốn nói là tơi tả, nhiều cánh tay đưa cao lên những khẩu súng. Là một người đánh cá từng trải và gan dạ, ông Long cẩn thận cho tàu của mình cặp sát vào chiếc xuồng cao su, ông đã nhận thấy trong số người lạ mặt này những bộ quân phục quen thuộc, nhưng tất cả kiệt sức nằm rũ riệt trong xuồng. Ông Long nghiêng mình hỏi vói xuống, rằng lại sao lại đến nông nỗi như thế. Trung Úy Liêm còn tỉnh nhất đã gào to lên:

- Tụi tôi đánh Hoàng Sa thoát về đây, xin cứu nhanh và đưa về Căn Cứ Hải Quân.

Ông Long phái mấy thủy thủ khỏe mạnh nhất nhảy xuống chiếc ca nô bồng lên từng người, những chiến sĩ nào còn có thể leo được thì tự leo lấy, nhưng phần lớn các anh đều phải nhờ sự giúp sức của các ngư dân. Khi đã leo lên được hết trên tàu, các Biệt Hải chỉ còn có thể nằm sải tay ra thở dốc và đòi nước như điên. Nhân có ấm nước đang sôi, anh em thuyền chài thi nhau thổi cho nguội bớt và trao cho các Biệt Hải nhấp từng ngụm cầm chừng. Đồng thời, các thủy thủ cũng dùng số thuốc cấp cứu mang theo trên tàu để cho các chiến sĩ dùng tạm. Nhận thấy tình trạng các Biệt Hải quá yếu, ông Long gọi bốn thủy thủ đem nồi cháo hồ đổ cho mỗi người nửa chén. Được một lúc, thấy những người lính có vẻ tươi tỉnh hơn, ông lại cho người đổ cháo tiếp, cứ mỗi nửa giờ đút cháo một lần. Tình hình sức khỏe các anh đã khả quan rất nhiều, trong lúc chiếc thuyền chỉ còn cách hải cảng Qui Nhơn chừng mười cây số. Ông Long đã rất lấy làm xót xa là đã không cứu được Biệt Hải Nguyễn Văn Duyên, vì khi anh được khiêng lên tàu, thì thân thể của anh đã bị tê liệt, anh đang thở những hơi cuối cùng. Chiếc ghe đánh cá đã xả hết tốc lực phóng vào bờ, với một hy vọng mỏng manh chạy đua với thời gian và thần chết, nhưng đã không còn kịp nữa rồi. Biệt Hải Nguyễn Văn Duyên đã anh dũng đền nợ nước. Chắc anh linh của anh cũng đã thanh thản bốc lên trên khoảng trời trong xanh và trên mặt sóng của quê hương. Anh đã về đến hải phận Việt Nam và đã ra đi trong những giọt nước mắt nghẹn ngào của anh em.

Một vài khoảnh khắc sau, một chiếc giang đỉnh của Căn Cứ Hải Quân Qui Nhơn đi tuần đã bắt gặp chiếc thuyền, được biết tự sự, đã khẩn cấp gọi về Bộ Chỉ Huy để chuẩn bị phương tiện cấp cứu. Nhiều chiến đỉnh xuôi ra khơi để hộ tống chiếc tàu đánh cá tiến vào Căn Cứ. Cuộc hành trình của 15 Biệt Hải vượt thoát từ mặt trận Hoàng Sa đã chấm dứt. Tuy rằng các anh và những chiến hạm HQ 4 Trần Khánh Dư, HQ 5 Trần Bình Trọng, HQ 10 Nhật Tảo và HQ 16 Lý Thường Kiệt đã phải đớn đau rút bỏ Hoàng Sa, nhưng ít nhất Hải Quân Trung cộng đã kinh hãi khi phải đối đầu với cơn phẫn nộ của hậu duệ Ngô Vương Quyền, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, dù chúng có tạm thời chiếm được Hoàng Sa nhưng cũng đã phải trả cái giá rất đắt. Hai chiến hạm bị chìm và hai chiến hạm bị hư hại.

Lịch sử bốn ngàn năm chống giặc ngoại xâm phương Bắc của dân tộc Việt Nam đã chứng minh rằng, chưa từng có đế quốc Hán tộc nào có thể hùng cứ lâu dài trên mảnh đất Hoa Lục mà không bị sụp đổ. Trung cộng không ra ngoài định lý ấy. Nền kinh tế của nó hiện nay đang phụ thuộc rất nặng nề vào tư bản Hoa Kỳ, đó là cái tiền đề để dẫn đến một cuộc sụp đổ không tốn một giọt máu kiểu Liên Sô năm 1989. Trung cộng đang giẫm vào vết xe đổ của Liên Sô qua những cuộc chạy đua võ trang và không gian với người Mỹ, ấy vậy mà bọn chúng đang rất kiêu hãnh đẩy mạnh tốc độ cuộc thi tài. Cũng tốt cho nhân loại. Càng chạy nhanh thì cái hố địa ngục càng đến gần hơn. Rồi cũng có một ngày quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa sẽ trở về với dân tộc Việt Nam. Đến lúc đó, thế hệ con cháu Việt Nam sẽ giở lại những trang sử hào hùng của cuộc hải chiến Hoàng Sa ngày 19.1.1974, và sẽ thêm một lần cúi đầu ngợi ca ông cha của mình đã đánh giặc phương Bắc kiệt liệt đến như thế nào.

Phạm Phong Dinh
Nguồn: Hon-viet 
____________
 

Chuyến trở về từ cõi chết của 15 biệt hải Hoàng Sa (1974) (Kỳ 1)Để phá hủy và gom góp các chứng cớ ngụy tạo, nhổ cờ Trung Quốc và dựng lại cờ xác nhận chủ quyền của Việt Nam, tổ chức phòng thủ trên một số đảo bị Trung Quốc chiếm, ngày 17/01/1974, Hải quân VNCH đã tung một nhóm biệt kích hải quân (biệt hải) đổ bộ lên đảo Vĩnh Lạc. Tuy nhiên, khi hải chiến diễn ra ác liệt, toán biệt hải này không được tàu chiến nào đón nên phải tự chèo xuồng về đất liền. Sau 10 ngày lênh đênh trên biển tưởng chừng sắp chết, cuối cùng 15 biệt hải này đã được một tàu đánh cá cứu. PetroTimes xin trích thuật lại chuyến trở về từ cõi chết của những người lính bảo vệ Hoàng Sa này. Bài viết được khai thác từ những số báo trong tháng 1 và 02/1974 của tờ Trắng Đen phát hành tại Sài Gòn.

Không ảnh đảo Vĩnh Lạc, tên quốc tế là Money Island


Những chứng cứ ngụy tạo của Trung Quốc trên Hoàng Sa
12h30 ngày 30/01/1974, 15 biệt hải thuộc chiếm hạm Lý Thường Kiệt (HQ-16) của Hải quân VNCH được một ngư dân cứu vớt tại một eo biển ở Qui Nhơn, cách đảo Cù Lao Xanh 45 km, thuộc hải phận quốc tế, đã về đến căn cứ Hải quân Quy Nhơn trong trạng thái kiệt sức. Một lính biệt hải đã chết vì đói và khát. Trong số 14 biệt hải còn lại, thì Trung úy hải quân Lâm Trí Liêm, trưởng toán biệt hải đổ bộ lên đảo Vĩnh Lạc, là tỉnh táo nhất khi được đưa vào bờ. Trung úy Liêm được đưa vào Quân Y viện Qui Nhơn và đã kể lại toàn bộ quá trình đổ bộ và rút lui của nhóm biệt hải do anh chỉ huy.

“Lúc 8h sáng ngày 17/01/1974 chúng tôi nhận lệnh đổ bộ lên đảo Vĩnh Lạc (Money) từ chiến hạm HQ-16. Đảo Vĩnh Lạc chỉ là đảo nhỏ trong quần đảo Hoàng Sa, đảo có chiều dài khoảng 1km, chiều ngang 0,5km, trên đảo có rừng cây cao. Toán đổ bộ chúng tôi gồm 15 người, sự chọn lựa này có tính cách ngẫu nhiên.

Chúng tôi mang theo vũ khí, đạn dược, máy truyền tin, thực phẩm nước uống, chúng tôi dùng xuồng cao su để đổ bộ, đây là loại xuồng được chế tạo rất đặc biệt, vỏ rất dầy, được cấu trúc rất nhiều ngăn và có thể bơm không khí riêng rẽ vào các ngăn, dài khoảng 5m, ngang 2m, ở 2 đầu trước sau có trang bị sẵn các lỗ hổng bằng sắt để dùng gắn súng đại liên, phía trước mũi có đính sẵn một la bàn từ loại nhỏ, và 2 bên hông gắn những tay cầm để người sử dụng dễ dàng bám vào khi ở mực nước sâu, cũng như xách di chuyển trên cạn.

Chúng tôi đổ bộ lên đảo từ hướng Đông-Bắc, nơi đây trong vùng lòng chảo bờ biển sâu thuận tiện cho việc đổ bộ. Chúng tôi được chỉ thị nếu gặp địch quân hoặc ngư dân Trung Quốc, cố gắng hòa hoãn đến mức tối đa, chỉ nổ súng khi thật cần thiết để tự vệ, ngoài ra chúng tôi phải triệt hạ các chứng cớ ngụy tạo nếu tìm thấy.

Sau khi đặt chân lên đảo Vĩnh Lạc chúng tôi lập tức nhổ các lá cờ Trung Quốc rải rác khắp đảo và dựng lại cờ VNCH ngay tại vị trí các cờ Trung Quốc bị nhổ bỏ, sau đó toán đổ bộ chúng tôi thám sát toàn đảo, trên đảo không có người, giữa đảo trong rừng cây có một miếu thờ nhỏ rất xưa cũ có khắc chữ Việt tên họ cùng ngày tháng năm, tôi nghĩ là của các ngư phủ Việt Nam trước đây đã lên đảo lập miếu thờ. Về phía Nam đảo, chúng tôi phát hiện trong rừng cây 4 nấm mộ 2 có gắn bia đá, 2 bia gỗ, khắc chữ Tàu, tất cả trông có vẻ xưa cũ, nhưng vết tích thì mới, chúng tôi dùng xẻng đào các nấm mộ nhưng không tỉm thấy xương cốt gì cả.

Điều chúng tôi thắc mắc là tại sao lính Trung Quốc đã cố tình ngụy tạo các nấm mộ, bỏ công cắm nhiều cờ ở bãi biển, mà lại không phá hủy cái miếu nhỏ xưa cũ của Việt Nam ta, điều đó chứng tỏ là họ rất vội vã, vừa thực hiện xong lập tức đi ngay không có thì giờ thám sát đảo.

Tất cả sự việc này được báo cáo về chỉ huy chiến hạm HQ-16, sau đó chúng tôi được lệnh triệt hạ các chứng cớ ngụy tạo, đem các tang vật này gồm 2 bia đá, 2 bia gỗ và các lá cờ Trung Quốc giao cho xuồng máy đem về để làm bằng chứng sau này. Tiếp theo chúng tôi nhận thêm lương thực và nước ngọt, đồng thời tổ chức phòng thủ trên đảo, đào các hố cá nhân trong rừng cây, gài lựu đạn ở các hốc đá và dùng rong biển đắp lên, đặt nhiều mìn định hướng Claymore và dùng cát phủ lên ở bãi biển mà chúng tôi nghĩ là địch quân sẽ đổ bộ, tất cả các vị trí này đều được chúng tôi đánh dấu cẩn thận trên hải đồ.


Chuyến trở về từ cõi chết của 15 biệt hải Hoàng Sa (1974) (Kỳ 2)
17 Tháng Giêng 2014 11:16 SA GMT+7
Trận Hải chiến năm 1974 giữa quân Việt Nam và Trung Quốc được các biệt hải trấn giữ trên đảo Vĩnh Lạc tường thuật qua ống nhòm và máy điện đàm.

Trận Hải chiến 1974 qua ống nhòm

Chiều ngày hôm đó (17/01/1974), 2 chiến hạm Trung Quốc xuất hiện trong vùng mang số 271 và 274, đây là loại tàu chiến Hộ tống hạm của Liên Xô chế tạo, được gọi là tàu Kronstadt. Hai tàu này dài khoảng 100m, hơi ngắn hơn HQ-16, nhưng vận tốc nhanh hơn. Hai chiến hạm ta HQ-16 và HQ-4 (chiến hạm Trần khánh Dư) dùng quang hiệu yêu cầu họ lập tức rời vùng lãnh hải VNCH, thì liền đó nhận lại quang hiệu mang ý nghĩa tương tự. Sau đó 2 chiến hạm Trung Quốc bỏ đi về hướng Đông-Bắc quần đảo.

Tảng sáng ngày 18/01/1974, chiến hạm HQ-5 (Trần bình Trọng), đã có mặt tại Hoàng Sa, và Hộ tống hạm Nhật Tảo HQ-10 cũng đã khởi hành hướng về Hoàng Sa, theo dự định sẽ đến nơi vào chiều tối ngày hôm ấy. Trên chiến hạm HQ-5 có Đại tá Hải quân Hà Văn Ngạc là người chỉ huy trận hải chiến. Khi vừa đến nơi Đại tá Ngạc truyền lệnh của Bộ tư lệnh Hải quân (BTLHQ) Vùng 1 duyên hải cho tất cả các đơn vị hiện diện tại Hoàng Sa, đó là phải tỏ thiện chí hòa hoãn tối đa, các toán đổ bộ không được tùy tiện nổ súng khi chưa có lệnh.



Bốn chiến hạm của quân lực VNCH đã tham dự trận hải chiến Hoàng Sa bảo vệ lãnh thổ vào năm 1974. Chiến hạm HQ-10 trúng đạn vào pháo tháp bị chìm tại trận, chiến hạm HQ-16 bị hư hại nặng nghiêng 15 độ, chiến hạm HQ-5 và HQ-4 bị hư nhẹ. Gần 50 thủy thủ và hạm trưởng Ngụy Văn Thà của HQ-10 tử vong. Ngoài ra HQ-5 có 3 quân nhân tử vong và 16 bị thương.

Khoảng 10h sáng ngày 18/01/1974, 4 chiến hạm Trung Quốc lại xuất hiện, 2 trong số chúng tôi đã nhận dạng hôm trước, đó là các Hộ tống hạm Kronstadt 271 và 274, còn 2 chiếc khác mang số 389 và 396, 2 chiến hạm này hình dạng khác hơn 2 hộ tống hạm kia, chiều dài ngắn hơn khoảng 70m, trang bị vũ khí nhiều hơn, ở trên đảo dùng ống nhòm quan sát chúng tôi thấy như vậy. Cả 4 chiến hạm Trung Quốc đều di chuyển cản đường và khiêu khích, qua máy truyền tin chúng tôi ghi nhận các sự kiện sau:

- HQ-16 và Hộ tống hạm 271 đã va chạm 2 hông tàu với nhau.

- HQ-4 đã đụng mũi vào hông sau của tàu Pháo hạm 389 và làm gãy mấy trụ giây an toàn của tàu này.

- HQ-5 di chuyển phía Nam đảo Quang Hòa (Ducan) để quan sát và thăm dò phản ứng của địch thì bị Hộ tống hạm 274 vận chuyển ép ngang phía trước mũi. HQ-5 phải ngưng máy và quay trở lại thả trôi phía nam đảo Vĩnh Lạc nơi mà chúng tôi đang trấn thủ.

- Tất cả 4 chiến hạm Trung Quốc sau đó cũng di chuyển về hướng đảo Quang Hòa (Duncan) và thả trôi ở đó.

- Khoảng xế chiều ngày 18/01/1974, 2 tàu nhỏ ngụy trang tàu đánh cá mang số 402 và 407 xuất hiện tăng viện cho phía Trung Quốc, 2 tàu này có lẽ là 2 tàu chiến nhỏ ngụy trang tàu đánh cá mà chúng tôi đã phát hiện bỏ neo sát bờ đảo Duy Mộng cách 2 ngày trước đây 16/01/1974.

Khoảng chiều tối ngày 18/01/1974, Hộ tống hạm Nhật Tảo HQ-10 đã ra đến nơi, lúc này ở trên đảo Vĩnh Lạc, chúng tôi nhận được thông tin là 4 chiến hạm ta được chia làm 2 nhóm, nhóm 1 gồm HQ-5 và HQ-4 sẽ hoạt động chung nhau về phía Nam quần đảo, nhóm 2 gồm HQ-16 và HQ-10 đang vận chuyển ở phía Tây quần đảo Hoàng Sa, bên ngoài khu lòng chảo.

Đêm 18/01/1974 trôi qua một cách yên lặng.

Trời tờ mờ sáng, tình hình có vẻ nhộn nhịp căng thẳng lên. Lúc 8h sáng ngày 19/01/1974, qua máy vô tuyến, chúng tôi được biết HQ-5 đang yểm trợ HQ-4 đổ bộ nhóm người nhái gồm 25 người lên đảo Quang Hòa từ phía Nam bên ngoài khu lòng chảo, nơi đây HQ-4 đã không vào sát bờ được vì có nhiều đá ngầm. Toán người nhái đã dùng xuồng cao su để bơi vào đến bãi đá ngầm sau đó họ phải lội bộ lên đảo, mực nước biển ngang đầu gối, thiếu úy trưởng toán người nhái báo cáo họ bị lính Trung Quốc tấn công bằng súng phóng lựu từ trong rừng cây cũng như trong các chòi canh vọng gác trên đảo.

Sau vài phút, toán người nhái báo cáo là viên thiếu úy trưởng toán người nhái và 1 binh sĩ tử thương. Toán đổ bộ đã phản kích bằng phóng lựu M79 và đại liên M60, nhưng không hiệu quả vì quá xa tầm, tóm lại tình hình hoàn toàn bất lợi, toán người nhái đang lội bì bỏm dưới nước chưa đặt chân được lên bờ, họ trở thành mục tiêu tác xạ của lính Trung Quốc. Sau cùng toán người nhái được lệnh rút lui về HQ-4. Tất cả sự việc trên chỉ xảy ra trong vòng 2 giờ đồng hồ.

Khoảng 10h sáng ngày 19/01/1974, ờ trên đảo Vĩnh Lạc, chúng tôi thấy HQ-16 và HQ-10 đang tiến vào khu lòng chảo, trong khu này đã hiện diện 3 tàu Trung Quốc mang số 274 (Hộ tống hạm), 396 (Pháo hạm) và 402 (tàu đánh cá ngụy trang), nơi chúng tôi trú đóng rất thuận tiện để theo dõi cả 2 mặt trận sắp xảy ra. Mặt trận phía Bắc trong khu lòng chảo của HQ-16 và HQ-10, nơi này rất gần nên chúng tôi có thể dùng ống nhòm để quan sát rõ ràng, còn ở mặt trận phía Nam ngoài khu lòng chảo xa về hướng Nam của đảo Quang Hòa, HQ-5 và HQ-4 cũng đang ở trong tình trạng căng thẳng. Dùng ống nhòm ta chỉ có thể phân biệt giữa tàu chiến ta và tàu Trung Quốc khác biệt về màu sắc.

Tàu Hải quân Việt Nam sơn màu xám nhạt, còn tàu Trung Quốc sơn màu xanh lá cây đậm, và ở đây có 3 tàu chiến Trung Quốc, vì ở quá xa chúng tôi không đọc được số tàu. Qua đối chiếu và suy đoán tổng số tàu địch hiện diện trong vùng, chúng tôi nghĩ 3 tàu Trung Quốc này là 271 (Hộ tống hạm), 389 (Pháo hạm) và 407 (tàu đánh cá ngụy trang).


Hình ảnh một số tàu chiến Trung Quốc tham gia vụ cưỡng chiếm Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974

Sự hiềm khích và tình trạng căng thẳng giữa các chiến hạm Việt Nam và Trung Quốc trong các ngày qua, nhưng không bên nào khai hỏa, để tạo thế thượng phong bất ngờ, Đại tá Hà Văn Ngạc (người chỉ huy trận đánh) ra lệnh đồng loạt khai hỏa lúc 10h25. Các chiến hạm Việt Nam đã dồng loạt khai hỏa, mặt trận phía Bắc trong vùng lòng chảo, ngay phút đầu tiên, tàu 274 và 396 đã bị trúng đạn và bốc cháy, sau một lúc quần thảo, ở trên đảo dùng ống nhòm quan sát, chúng tôi thấy HQ-10 đã trúng hỏa tiễn địch ở đài chỉ huy. Sau 30 phút giao tranh, sự thiệt hại đôi bên mặt trận phía Bắc trong vùng lòng chảo được chúng tôi ghi nhận sau:

- Phía Trung Quốc: Hộ tống hạm Kronstadt 274 sau một lúc nổ (chắc là bị trúng ở hầm đạn) đã chìm nghỉm, pháo hạm 396 đang bị cháy đã ủi vào bãi san hô giữa đảo Vĩnh Lạc nơi chúng tôi trấn giữ và đảo Quang Hòa. Tàu 396 này có lẽ cũng trúng ở hầm đạn ở phía sau lái, thỉnh thoảng dùng ống nhòm quan sát, chúng tôi thấy lóe sáng phía sau lái và có khói bốc cao. Còn tàu 402 chắc bị trúng đạn ở bánh lái, nên chuyển vận rất khó khăn, chạy một hình chữ chi về hướng Bắc đảo Duy Mộng.

- Phía Hải quân VNCH: HQ-10 trúng hỏa tiễn ở đài chỉ huy và nhiều loại đạn khác, chiến hạm bị cháy ở đài chỉ huy, hạm trưởng và nhiều nhân viên trên chiến hạm đã tử thương. Hạm phó bị thương nặng và đã xuống được bè đào thoát cùng với 23 nhân viên chiến hạm. HQ-16 bị trúng nhiều loạt đạn, hư hại nặng, tàu bị nghiêng về phía bên phải và vận chuyển một cách khó khăn chậm chạp ra khỏi vùng lòng chảo.

- Mặt trận phía Nam cũng đã chấm dứt, thiệt hại đôi bên chúng tôi không rõ, nhìn qua ống nhòm chỉ thấy khói súng dầy đặc, chúng tôi liên lạc với toán đổ bộ HQ-4 trên đảo Cam Tuyền thì được biết HQ-4 và HQ-5 đã rời vùng giao tranh, tất cả đều bị thiệt hại, và từ đó về sau họ đã mất liên lạc với HQ-4, phía Trung Quốc thì không được biết.

Bất chợt, người bạn trong nhóm chúng tôi anh Trần Phừng (phụ trách thông tin vô tuyến) nhận được chỉ thị từ hạm trưởng HQ-16, ông cho hay tình hình rất tệ hại, tàu chỉ còn 1 máy, bên hông phải bị trúng đạn, tàu không thể dừng lại rước chúng tôi được, do đó ông trao toàn quyền quyết định cho tôi (trung úy Liêm).


Chuyến trở về từ cõi chết của 15 biệt hải Hoàng Sa (1974) (Kỳ cuối)


(PetroTimes) - Sau 10 ngày lênh đênh trên biển tưởng chừng sắp chết, cuối cùng 15 biệt hải Hoàng Sa (1974) đã được một tàu đánh cá cứu.

Chuyến trở về từ cõi chết
Khoảng 16h chiều ngày 19/1/1974, có 6 phản lực cơ Trung Quốc xuất hiện. Chúng bay rất thấp lượn chung quanh các đảo ở Hoàng Sa rất nhiều lần, có lẽ là để quan sát tình hình chung trong vùng, sau đó biến mất về hướng Bắc. Đêm ngày 19/1/1974, tôi đã hội ý và bàn bạc với cả nhóm, lúc này cận Tết gió mùa Đông Bắc, nếu dùng xuồng cao su hiện có và tấm mền làm buồm, chặt cây trên đảo làm cột buồm, cơ hội về đến đất liền rất lớn, cả nhóm đồng lòng đào thoát về đất liền bằng cách này. Kiểm điểm lại lương thực chúng tôi còn đủ dùng trong 4 ngày, 1 can nước ngọt khoảng 18 lít, đêm hôm ấy bình thản trôi qua sau một cơn biến động dữ dội.
Sáng ngày hôm sau, 20/1/1974, 7 chiến hạm Trung Quốc xuất hiện trong vùng, 4 trong số này là loại Hộ tống hạm Kronstadt, còn 3 chiếc khác là loại chuyển vận hạm, chúng tôi đoán là họ đang chuẩn bị đổ bộ.
Khoảng 9h ngày 20/1/1974, các chiến hạm Trung Quốc đồng loạt bắn vào các bãi biển ở các đảo do ta trấn đóng để dọn bãi chuẩn bị lính cho của họ đổ bộ, trên đảo Vĩnh Lạc, chúng tôi ẩn núp ở các hố cá nhân đã đào trước đây dưới các gốc cây lớn trong rừng phía Nam đảo, lúc này chúng tôi liên lạc đều đặn với các đơn vị trú đóng, chúng tôi được biết sau:
- Đảo Hoàng Sa: nơi đặt đài khí tượng do nhóm dân quân địa phương trấn đóng, tàu Trung Quốc đã ngưng bắn dọn bãi và đang cho lính đổ bộ.
- Đảo Cam Tuyền: nơi nhóm nhân viên cơ hữu HQ-4 trấn đóng, tàu Trung Quốc vẫn còn đang bắn vào bãi biển.
- Đảo Vĩnh Lạc: nơi chúng tôi trấn đóng, tàu Trung Quốc đã ngưng bắn dọn bãi, họ đang cho lính đổ bộ từ mặt Đông Bắc của đảo, chính mấy ngày trước đây chúng tôi đã đổ bộ lên đảo ở chỗ này vì nơi đây bờ biển sâu, rất thuận tiện cho việc đổ bộ, cũng chính nơi đây chúng tôi đã gài nhiều mìn và lựu đạn để tổ chức phòng thủ.
Đồng bào đón tiếp các chiến sĩ vừa dự trận hải chiến bảo vệ Hoàng Sa trở về.
Ngay lúc này chúng tôi quyết định rời đảo từ hướng Nam, nơi đây bờ biển đầy san hô và đá ngầm, chúng tôi 15 người mang xuồng cao su và các vật dụng kể cả vũ khí cá nhân và máy truyền tin, ra xa đến 2,3km mà mực nước chỉ ngang đến bụng. Rồi chúng tôi lên xuồng, cố gắng bơi thật nhanh, rời xa đảo càng sớm càng tốt, khi thấy đảo chỉ còn 1 vệt nhỏ, lúc ấy chúng tôi mới dựng cột buồm hướng về phía Đông Nam. Chúng tôi lênh đênh trên biển 2 ngày. Lương thực và nước ngọt cạn dần, tôi đã nhìn thấy điều này nên quyết định giới hạn khẩu phần lương thực và nước ngọt.
Đến chiều ngày 22/1/1974, khi mặt trời chưa lặn, chúng tôi ghi nhận 1 điều rất đặc biệt. Từ phía sau lưng chúng tôi phía xa ở đường chân trời, bất chợt hỏa châu được bắn lên, chúng tôi cũng đáp ứng lại bằng hỏa châu, cả 2 bên đều làm tin cho nhau bằng hỏa châu vài lần rồi sau đó im bặt. Chúng tôi không biết nguồn hỏa châu này từ đâu, chỉ suy đoán là của phi cơ trinh sát, hoặc của tàu dò tìm các nhân viên chiến hạm bị trôi trên biển sau trận hải chiến. Sau này được chuyển từ Quân Y viện Qui Nhơn về Bệnh Viện Hải quân Sài Gòn, khi nói chuyện, chúng tôi mới biết đó là nhóm 23 người HQ-10 đào thoát trên bè cấp cứu của chiến hạm, họ may mắn hơn chúng tôi khoảng vài giờ sau, được một thương thuyền Hà Lan cứu vớt.
Chúng tôi tiếp trục trôi trên biển đến ngày thứ 6 thì lương thực và nước ngọt hoàn toàn hết sạch, từ đó trở đi, nếu trời mưa, chúng tôi dùng buồm hứng nước, trời nắng thì chúng tôi dùng ca sắt múc ít nước biển, sau đó lấy bao nylon bít lên, một thời gian sau, nước bay hơi đọng ở phía dưới bao nylon, cẩn thận mở bao nylon dùng lưỡi mà liếm, đó là cách chúng tôi giải khát từ ngày thứ sáu trở đi.
Sang đến ngày thứ 10, tất cả hầu như bị ngất đi vì quá kiệt lực. Mắt chúng tôi chẳng còn thấy gì nữa, ngay cả tiếng sóng biển cũng chẳng nghe. Thân xác đã chịu đựng quá giới hạn con người. Nắng, gió, sương lạnh, và những cơn sóng lớn cùng với việc thiếu thực phẩm đã khiến chúng tôi tuyệt vọng chờ chết. Trưa hôm ấy, anh Nguyễn Văn Duyên (quản kho) đã hấp hối, trong tình trạng mê sảng, anh lầm bầm trong miệng những câu nghe không được rõ, khoảng 2 giờ sau, anh Nguyễn Văn Cảnh (y tá) là người khỏe nhất trong nhóm, đã lay mọi người dậy cho hay là anh Nguyễn Văn Duyên đã mất.
Chiều ngày hôm ấy khoảng 15h, có một tàu đánh cá chạy về hướng chúng tôi, trên tàu đánh cá có 4 ngư phủ, đó là những vị cứu tinh của chúng tôi, từng người một, chúng tôi được họ ẵm lên tàu và thay phiên nhau đút từng muỗng cháo cho anh em chúng tôi. Kế đó họ báo là anh Nguyễn Văn Duyên đã chết, và chúng tôi cho họ hay là chúng tôi đã biết lúc mấy giờ trước, xuồng cao su được các ngư phủ cột vào sau lái tàu và sau đó kéo về quân cảng Qui Nhơn.
Tàu đánh cá cập bến quân cảng Qui Nhơn lúc trưa, và chúng tôi được chở vào Quân Y viện Qui Nhơn để được cấp cứu. Đây là ngày không bao giờ quên của nhóm chúng tôi, ngày 30/1/1974, ngày chúng tôi được cứu sống sau 10 ngày lênh đênh trên biển”.
Trên đây câu chuyện của 15 chiến sĩ biệt hải có nhiệm vụ đặc biệt trên đảo Vĩnh Lạc trong giai đoạn Hải quân Việt Nam đối đầu cam go với Hải quân Trung Quốc trên quần đảo Hoàng Sa khi chúng đem một lực lượng hùng hậu chiếm cứ quần đảo này.
S.Phương (tổng hợp)
Nguồn: Petrotimes

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét