Kỷ niệm trong đời HQ của Hạm Trưởng HQ-5 Phạm Trọng Quỳnh
Số quân: 56A 700.773
Cấp bậc cuối cùng: HQ Trung-Tá
Ngày sinh:
Ngày 05 tháng 1 năm 1936.
Sinh quán:
Hà-Đông, Bắc Phần, Việt-Nam
Địa chỉ hiện tại:
Sunnyvale, Northern California, U.S.A.
Gia cảnh:
Vợ: Nguyễn Thị Bạch-Mai.
Con: 2 gái và 2 trai. 3 cháu lớn đã lập gia-đình, còn cháu trai út năm nay nữa là xong.
Cháu ngọai: 2 trai và 1 gái.
Hoạt-động trước khi gia-nhập HQ:
Học Lycée Albert Sarraut Hà Nội và Lycée Yersin Đà-Lạt.
Chức-vụ trong HQ/VNCH:
1963-1964: SQ Đệ Tam HQ-451 (Hạm Trưởng là HQ Đại-Úy Nguyễn Hữu Tố). Sau đó làm Hạm Phó cho HQ Đại-Uùy Hà Văn Ngạc.
Cùng tầu có ông 'Nước Mém' và 'Mệ'.
1964-1966: SQ Đệ Tứ HQ-406. Cùng tầu có BB Nguyễn Tấn Đơn là SQ Đệ Tam.
Hạm Trưởng HQ Đại-Úy Trần Bình Phú.
Thăng cấp Trung Úy tháng 04/65 và trở thành Hạm-Phó qua 3 nhiệm kỳ các
Hạm Trưởng Nguyễn Ngọc Rắc,
Trần Văn Lâm và Quản An.
1966-1967: Chỉ Huy Phó TTHL/HQ Cam Ranh. Cùng đơn vị còn có ‘Trâu Nẫm’.
1967-1968: Hạm Trưởng HQ-611.
1968-1969: Hạm Trưởng HQ-471.
1969-1971: Hạm Trưởng HQ-230.
1971-1972: Hạm Trưởng HQ-406.
1972-1973: Hạm Trưởng HQ-12.
1973-1974: Hạm Trưởng HQ-800.
1974-1975: Hạm Trưởng HQ-5.
Bài Viết:
Kỷ niệm trong đời HQ
Trong
cuộc đời Hải Quân tôi có nhiều kỷ niệm vui buồn. Năm 1968 đáng lẽ tôi
không còn đi tầu được nữa vì suýt làm mất chiếc HQ-611đụng đá ngầm tại
Đông Nam đảo Phú Quốc, nhưng sau đó vẫn được liên tục làm Hạm Trưởng lần
lượt 7 chiến hạm, từ nhỏ nhất tới lớn nhất của HQVN. Đây có lẽ là một
thành tích hiếm có vì lúc bấy giờ các Sĩ Quan đàn anh thì chưa có tàu
lớn để đi tiếp trong khi các Sĩ Quan đàn em thì chưa đủ thâm niên để lên
chiến hạm lớn, chỉ có Đệ Nhất Bảo-Bình là đúng thời điểm. Nói về thời
gian hải vụ thì tôi còn kém xa nhiều người, ngay như đi tàu lớn thì tôi
cũng chẳng hơn ai, nhưng làm Hạm Trưởng liên tục 7 chiến hạm thì lại là
chuyện khác. Không những thế, khi làm Hạm Trưởng HQ-406, tàu về nghỉ
bến sửa chữa, tôi lại được chỉ định làm Hạm Trưởng tạp dịch lần lượt
trên hai Hộ Tống Hạm HQ-13 và HQ-09 vì hai chiến hạm này không có Hạm
Trưởng để đưa tầu đi công tác. Đây cũng là một sự kiện hiếm có vì một SQ
đang làm Hạm Trưởng tàu nhỏ lại phải giữ chức vụ Hạm Trưởng tạp dịch
tàu lớn hơn.
Một kỷ niệm vui: Cuối năm 1974, dưới Tuần
Dương Hạm HQ-5 có 3 Bảo-Bình: Tôi, ông 'Nước Mém' Hạm-Phó và ông
Fernandel Đệ Tam. Có lần tôi đang vô cặp cầu BTL/HQ/V1ZH, Đà Nẵng, ông
'Nước Mém' ghé tai bảo: "Tao cặp nghe mày". Nói xong, ông tự động lấy
quyền chỉ huy của tôi để đưa tàu vào 'cặp như để', xong nhìn tôi mặt
vênh lên kiêu hãnh. Còn ông Fernandel, nhiều khi đi phiên xuống, đói
quá, mở phòng Hạm Trưởng, kêu Maitre d'hotel của tôi nấu mì cho ông ấy
ăn. Thế là mấy chú lính dưới tầu kháo nhau là "chiến hạm này có 3 Hạm
Trưởng", và lẽ dỉ nhiên là các chú ấy sợ ông ‘Nước Mém’ và ông Fernandel
hơn tôi. Sau khi ông 'Nước Mém' thuyên chuyển, ông Fernandel lên thay,
rồi cũng thuyên chuyển luôn để đi làm Hạm Trưởng PGM. Cái gì của Cesar
thì trả lại cho Cesar, các Bình trên ra đi để trả lại quyền độc diễn Hạm
Trưởng cho tôi.
Chuyến công tác cuối cùng với định
mệnh đất nước cùng với các 'vì sao': Cuối tháng 3/1975, Tuần Dương Hạm
HQ-5 được lệnh khẩn đến vùng I công tác hành quân. Ngay khi trình diện
Đô Đốc Tư Lệnh VIZH để nhận lệnh, chiến hạm được chỉ thị ra ngay cửa
Thuận An để đón Trung Tướng Lâm Quang Thi và được đặt dưới quyền điều
động của Trung Tướng để chỉ huy cuộc triệt thoái các binh sĩ hiện diện
nơi đây. Huế và Thuận An mất, chiến hạm về cặp cầu BTL/HQ/VIZH để đổ bộ
các binh sĩ trên chiến hạm, rồi theo kế hoạch lui quân của Tổng Thống
Thiệu, quân Cộng Sản Bắc Việt tiến chiến Đà Nẵng bỏ ngỏ, bắt đầu pháo
kích sang BTL/HQ Tiên Sa, chiến hạm phải tách bến tránh pháo địch. Nếu
tôi nhớ không lầm thì lúc đó nhằm ngày 29 tháng 3 năm 1975. Đêm đến,
Hành Quân Biển chỉ thị cho các chiến hạm tại vùng I phải tập trung tại
Mỹ-Khê để chuẩn bị triệt thoái Sư Đoàn TQLC về Sài-Gòn. Tôi im lặng vô
tuyến và ở lại ngoài cửa Đà Nẵng vì lo lắng cho sự an nguy của Phó Đề
Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, vị Tư Lệnh Vùng mà tôi hằng kính nể vì sự hăng say
trong công vụ và lòng dũng cảm tột đỉnh. Tôi cho chiến hạm trong tư
thế sẵn sàng nghênh chiến với tàu địch một khi nếu chúng tràn xuống.
Đúng như sự tiên đoán của tôi, vào khoảng 1, hoặc 2 giờ sáng Đô Đốc
Thoại thoát ra trên một chiếc ghe duyên đoàn. Cùng đi với Đô-Đốc có ông
Al Francis, Tổng Lãnh Sự Mỹ tại Đà Nẵng, và vài người ngoại quốc khác.
Sau khi tất cả lên chiến hạm, tôi báo cáo sự việc về Hành Quân Biển và
từ đó chiến hạm kéo hiệu kỳ 1 sao. Các chiến hạm khác tại vùng Mỹ Khê
được thông báo về sự hiện diện của vị Sĩ Quan thâm niên trên HQ-5 để chỉ
huy cuộc triệt thoái của Sư Đoàn TQLC. Trong cuốn Decent Interval của
Frank Snepp, Trưởng Phòng Phân Tích Chiến Luợc của CIA tại VN (Chief
Strategy Analyst in Vietnam) , ông ta có viết "mọi người chỉ được biết
là còn sống an toàn khi lên được HQ-5". Nếu như không có sự hiện diện
của HQ-5 thì Đô Đốc Thoại và ông Tổng Lãnh Sự Mỹ Al Francis đã phải xuôi
Nam trên ghe, không biết họ sẽ gập những bất trắc gì, và ông Frank
Snepp có thể sẽ viết những lời miệt thị HQVN như đã chê bai nhiều chuyện
trong cuốn sách của ông. Kể từ đó chiến hạm trực tiếp liên lạc với
Sài-Gòn qua âm thoại. Các lệnh của Tổng Thống Thiệu, của TL/HQVN, của
Tòa Đại Sứ Hoa-Kỳ đều qua HQ-5. Khi Vùng I lọt vào tay Cộng Sản Bắc
Việt, chiến hạm cùng với HQ-2 trở về Cam Ranh. Đổ bộ TQLC xong, Phó Đề
Đốc Hoàng Cơ Minh xuống chiến hạm, chỉ thị tách bến, trực chỉ Qui Nhơn.
Lại hiệu-kỳ một sao kéo lên đỉnh chiến hạm. Qui Nhơn thất thủ, Đô Đốc
Minh chỉ huy các tàu HQ tiếp cứu các binh sĩ Sư Đoàn 22 Bộ Binh còn kẹt
trên bờ biển Qui Nhơn. Hoàn tất nhiệm vụ, chiến hạm trở về Cam Ranh, đổ
bộ binh sĩ, và Đô Đốc Minh rời chiến hạm. HQ-5 được lệnh rời Cam Ranh,
trực chỉ Vũng Tàu để đón Phó Đề Đốc Vũ Đình Đào lên chiến hạm chỉ huy
cuộc tiếp cứu Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi đang bị quân Cộng Sản vây hãm
tại Phan Thiết. Khi Đô Đốc Đào lên chiến hạm, hiệu kỳ một sao lại một
lần nữa được kéo lên đỉnh cột cờ HQ-5. Chiến hạm trực chỉ Phan Thiết,
nhưng khi tới nơi thì Phan Thiết đã lọt vào tay quân CSBV và Trung Tướng
Nghi đã bị bắt. Chiến hạm trợ về Vũng Tàu, Đô Đốc Đào rời tàu, và sau
cùng thì Vũng Tàu cũng lọt vào tay CS, để rồi sáng ngày 30 tháng 4 khi
Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng thì Tư Lệnh Hạm Đội, HQ Đại
Tá Phạm Mạnh Khuê, thoát ra trên một PGM, chỉ thị cho HQ-5 chờ đón ngoài
cửa Vũng Tàu. Khi Tư Lệnh Hạm Đội lên chiến hạm, hiệu kỳ Tư Lệnh lại
được kéo lên đỉnh cột cờ. Tuần Dưong Hạm HQ-5 trở về với Mẹ Hạm Đội cho
đến khi được trao trả cho Đệ Thất Hạm Đội Hoa-Kỳ tại Subic bay. Và sau
cùng thì cũng chính tôi rời chiến hạm để thực sự bắt đầu cuộc sống lưu
vong với những ray rứt khôn nguôi dù đã qua bao nhiêu năm tháng.
Một chút riêng tư
Năm
1987, với những bất đồng không thể hàn gắn được (nói theo kiểu Mỹ), tôi
và bà vợ trước đi đến quyết định xa nhau. Tôi tiếp tục sống nuôi hai
đứa con trai nhỏ ăn học. Đến năm 1991, trong buổi tiệc mừng đoàn tụ của
Bình Thợ Mộc, tôi được giới thiệu với Bạch-Mai, cũng cùng hoàn cảnh.
Chúng tôi thường lui tới gặp nhau, để rồi cảm thông và thương nhau.
Trong dịp phó hội Bảo-Bình họp mặt tại nhà Bình Tiếp ở San Diego vào
ngày 4 tháng 7 năm 1992, chúng tôi có ghé Las Vegas và đã nguyện sống
bên nhau cho đến cuối đời. Dịp đó tôi có chọc Bạch Mai, nhắc lại câu nói
của anh bà ấy (cũng là một Thiếu Tá Hải Quân) : "Em mà ra ngoài thì có
cả triệu thằng xếp hàng đứng chờ". Nàng trả lời bằng một câu thật dễ
thương: "Nhưng trong cả triệu thằng đứng chờ, em chỉ chọn được có một
mình anh". Bạch Mai còn hứa sau này về già, nếu tôi phải ngồi xe lăn thì
Bạch Mai sẽ thỉnh thoảng đẩy xe đưa tôi đi ăn steak, uống rượu vang,
cùng đi xem ciné (Tây mà) theo như sở thích của tôi. Tôi kể chuyện này
cho mấy Bình ở gần. Có Bình phán: "Tao sợ em lại lái xe đưa mày lên đỉnh
đồi, cho mày ngồi lên xe lăn rồi để cho mày hành nghề Hạm Trưởng lần
chót: Tự do vận chuyển xuống đồi!"
Chúng tôi đả sống bên nhau được 10 năm và mong rằng sẽ mãi mãi, để bớt đi phần nào nỗi khổ đau của kiếp sống tha phương.
Phạm Trọng Quỳnh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét