Tìm kiếm Blog này

Chủ Nhật, 27 tháng 12, 2015

Thông số các tàu tham chiến của Hải quân VNCH

Lý lịch 4 con tàu tham chiến của Hải quân VNCH


Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt HQ-16




Tàu khu trục nhỏ HQ-16 Lý Thường Kiệt
Đây là loại tàu khu trục nhỏ được sản xuất tại Mỹ vào năm 1941, đưa vào hoạt động chiến đấu trong hải quân Mỹ trong Chiến tranh thế giới thứ 2 với tên gọi USS Chincoteague (AVP-24). Sau khi kết thúc chiến tranh, tàu này được cho ngưng hoạt động vào năm 1946.
Đến năm 1949, con tàu lại được "hồi sinh" để phục vụ trong lực lượng tuần duyên Mỹ giai đoạn 1949-1972. Tháng 06/1972, con tàu này lại được sửa đổi và chuyển giao cho hải quân Việt Nam Cộng hòa với vai trò tàu khu trục nhỏ.
- Có chiều dài 94,72 mét, rộng 12,5 mét, mớn nước 4,9 mét, lượng giãn nước tiêu chuẩn 1.766 tấn, đầy tải 2.800 tấn, tốc độ hành trình 18 hải lý/h.
- Vũ khí như HQ-5 gồm: 1 khẩu 127 ly (5 inch) phía trước mũi, 1 đại bác 40 ly đôi cũng ở sân trước nhưng ở sân thượng phía trên khẩu 127 ly, 2 khẩu 40 ly bên tả và hữu hạm tại sân sau và 2 khẩu đại bác 20 ly đôi ở hai bên hông đài chỉ huy, 2 đến 5 khẩu cối 81 ly. Các loại vũ khí chống tầu ngầm đã bị cắt bỏ khi chuyển giao cho HQVN.
- Thủy thủ đoàn: chừng  người.
Sau khi kết thúc chiến tranh Việt Nam, tàu khu trục HQ-16 gia nhập biên chế hải quân Philippines cho đến khi "nghỉ hưu" vào năm 1993.


Khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ-4 



Tàu khu trục nhỏ HQ-4 Trần Khánh Dư
Tàu khu trục nhỏ HQ-4 Trần Khánh Dư
Đây là loại tàu khu trục nhỏ lớp Edsall được đưa vào hoạt động trong hải quân Mỹ vào năm 1944 với tên gọi USS Forster (DE-334). Con tàu này ngưng hoạt động vào năm 1954. Đến năm 1956, nó được huy động trở lại phục vụ trong biên chế cảnh sát biển Mỹ ở vịnh Subic, Philippines. Ngày 25/09/1971, con tàu được chuyển giao cho hải quân Việt Nam Cộng hòa.
- Có chiều dài 93 mét, rộng 11,15 mét, mớn nước 3,18 mét, lượng giãn nước tiêu chuẩn 1.253 tấn, đầy tải 1.590 tấn. Tàu được trang bị 4 động cơ diesel truyền động cho chân vịt 2 trục, tốc độ tối đa 21 hải lý/h.
- Vũ khí: Tàu được trang bị 3 pháo 76mm, 2 pháo 40mm, 8 pháo 20mm, 3 ống phóng ngư lôi 533mm, 8 máy phóng mìn sâu chống tàu ngầm. - Tàu được trang bị radar TACAN.
- Thủy thủ đoàn: chừng 175 người.
Là tàu hiện đại nhất của VNCH thời bấy giờ. Sau khi kết thúc chiến tranh Việt Nam, tàu HQ-4 được chuyển giao hoạt động trong hải quân Việt Nam với tên gọi HQ-3. Đến nay tình trạng hoạt động của tàu này không rõ ràng.


Tuần Dương Hạm Trần Bình Trọng HQ-5



HQ-5 cùng lớp với tàu HQ-16. Tàu này được đóng và đưa vào hoạt động trong hải quân Mỹ năm 1944 với tên gọi USS Castle Rock (AVP-35). Nó đã tham chiến ở khu vực trung tâm Thái Bình Dương trong Chiến tranh thế giới thứ 2.
Năm 1949,tàu thuộc lực lượng tuần duyên Hoa Kỳ (USCG - US Coast Guard) mang tên Castle Rock (WHEC 383).
Ngày 21/12/1971 tàu được chuyển giao cho Hải quân Việt Nam Cộng hòa, mang tên Trần Bình Trọng, số hiệu HQ-5:
- Có chiều dài 94,72 mét, rộng 12,5 mét, mớn nước 4,1 mét, lượng giãn nước tiêu chuẩn 1.766 tấn, đầy tải 2.800 tấn, Máy chánh: 2 máy dầu cặn loại Fairbank Morse 6080 mã lực, 2 chân vịt, tốc độ hành trình 18 hải lý/h.
- Vũ khí: 1 khẩu 127 ly (5 inch) phía trước mũi, 1 đại bác 40 ly đôi cũng ở sân trước nhưng ở sân thượng phía trên khẩu 127 ly, 2 khẩu 40 ly bên tả và hữu hạm tại sân sau và 2 khẩu đại bác 20 ly đôi ở hai bên hông đài chỉ huy, 2 đến 5 khẩu cối 81 ly.
Nguyên thủy khi chuyển giao, HQ-5 chỉ có đại bác 127 ly, sau này Hải Quân Công Xưởng gắn thêm các ụ đại bác 40 ly để tăng cường hỏa lực tác chiến.
- Thủy thủ đoàn: chừng 200 người.
Tuần Dương Hạm là loại chiến hạm lớn nhất của HQVN và có súng cỡ 127 ly cũng lớn nhất. Các loại vũ khí chống tàu ngầm đã bị cắt bỏ khi chuyển giao cho HQVN.
Là Soái hạm (tàu chỉ huy) trong Hải đoàn của VNCH tham chiến trong sự kiện hải chiến Hoàng Sa, 1974.
Sau Chiến tranh Việt Nam, tàu khu trục HQ-5 cũng sang Philippines. Con tàu sau đó được đưa vào hoạt động trong biên chế hải quân Philippines với tên gọi BRP Francisco Dagohoy (PF-10). Tàu đã ngưng hoạt động vào năm 1985.

Tàu khu trục nhỏ HQ-5 Trần Bình Trọng cùng lớp với tàu HQ-16.

Hộ tống hạm Nhật Tảo HQ-10

Hải chiến, Hoàng Sa, Trung Quốc, VNDCCH, Liên Xô

Tàu hộ tống HQ-10 Nhật Tảo.
Tàu hộ tống Nhật Tảo HQ-10.
Nguyên gốc của Nhật Tảo HQ-10 là tàu quét mìn USS Serene (AM-300), được đưa vào hoạt động trong hải quân Mỹ ngày 31/10/1943. Tàu này đã được sử dụng vào nhiệm vụ quét mìn xung quanh quần đảo Okinawa (Nhật Bản) nhằm dọn đường cho các lực lượng tấn công của hải quân Mỹ.
Sau đó con tàu này còn thực hiện nhiệm vụ giải phóng các bãi mìn do hải quân Nhật Bản sử dụng phong tỏa các vùng biển Hoàng Hải, eo biển Tsushima và biển Nhật Bản. USS Serene (AM-300) đã được tặng 6 sao cho các thành tích trong chiến đấu.
Năm 1964, con tàu được chuyển đổi thành tàu hộ tống theo chương trình hỗ trợ quân sự của Mỹ dành cho Việt Nam Cộng hòa và mang tên mới là Nhật Tảo HQ-10. Tàu có chiều dài 56,24 mét, rộng 10 mét, mớn nước 2,97 mét. Lượng giãn nước tiêu chuẩn 650 tấn, tốc độ hành trình 14,8 hải lý/h.
- Vũ khí: 1 đại bác 76 ly lộ thiên ở sân trước, 2 đại bác 40 ly đơn bên tả và hữu hạm ở sân giữa, 4 đại bác 20 ly đôi ở hai bên đài chỉ huy và ở sân sau, 1 dàn phóng cối chống ngầm, 4 ống phóng mìn biển sâu cùng 2 hệ thống xử lý mìn.
- Thủy thủ đoàn chừng 80 người. 
Trong trận chiến ngày 19/1/1974 tại Hoàng Sa, Nhật Tảo HQ-10 bị trúng đạn vào tháp pháo và chìm tại chỗ sau đó.



Trong số các tàu VN tham chiến, có lẽ chỉ Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư HQ-4 mới xứng đáng mang danh “chiến hạm”. Trong khi các chiến hạm khác tuy được gọi là Tuần Dương Hạm hay Hộ Tống Hạm, nhưng thật ra chỉ là loại tuần duyên (Coast Guard) hay tàu rà mìn của Hoa Kỳ4 chiến hạm Hoa kỳ viện trợ cho VNCH đều thuộc loại phế thải, thay vì phá hủy, họ tân trang lại rồi trao cho VN
Các sĩ quan Hải quân VNCH đều được huấn luyện theo tiêu chuẩn Âu-Mỹ, thêm kinh nghiệm VN ??

Đặc Tính Hộ Tống Hạm Nhật Tảo :
Hộ Tống Hạm Nhật Tảo thuộc loại Admirable Class Minesweeper (AM) do hảng tàu Winslow Marine Railway and Shipbuilding Co ở Winslow tiểu bang Washington đóng.
Chiến hạm được hạ thủy ngày 31 tháng 10 năm 1943 và được đăt tên là USS Serene (AM 300).
Ngày 7 tháng 2 năm 1955 đổi thành loại Fleet Minesweeper MSF 300.
Ngày 24 tháng 1 năm 1964 chuyển giao cho Hải Quân VNCH và được đặt tên là Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ10.
Trọng tải:
650 tấn (tiêu chuẩn) – 945 tấn (tối đa)
Kích thước:
dài 184,5 ft – ngang 33 ft – tầm nước 9,75 ft
Máy chánh:
2 máy dầu cặn (Cooper Bessemer), 2 trục chân vịt, 1710 mã lực
Vũ khí:
– 1 khẩu đại bác 76,2 ly phía sân trước có tầm tối đa 14,000 yds, tầm hữu hiệu 7,500 yds, tác xạ với tốc độ nhanh 50 phát/phút, với tốc độ thích ứng 20 phát/phút.- 2 khẩu đại bác 40 ly (tả và hữu) phía sân sau có tầm tối đa 11,000 yds, tầm hữu hiệu 4,000 yds, tác xạ với tốc độ 140 phát/phút
– 4 khẩu đại bác 20 ly đôi bao quanh phòng lái có tầm tối đa 4,800 yds, tầm hữu hiệu 2,000 yds, tác xạ với tốc độ 450 phát/phút
– 2 khẩu đại liên 30
– có trang bị súng cối 81 ly ( không rõ số lượng)
– Vũ khí chống tàu ngầm: với nhiệm vụ tuần tiểu và hộ tống các dụng cụ rà mìn đã được tháo gỡ và thay vào đó là 2 dàn thủy lựu đạn ( depth charge rack) đã được thiết trí ở phía sau lái, ngoài ra còn có 1 dàn phóng thủy lựu đạn hedgehog ở phía sân trước.
Vận tốc:
tối đa 14,5 knots, có tầm hoạt động 6,500 miles với vận tốc tiết kiệm là 8 knots
Thủy thủ đoàn:
82 người
themsonha-hoangsa1-3

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét