Tìm kiếm Blog này

Thứ Bảy, 7 tháng 3, 2015

TH: Tương quan lực lượng


Nguồn tham khảo:
Tài liệu HQ Hoa Kỳ: Phân tích về khả năng của VNCH và Trung Cộng

Trần Đỗ Cẩm: ... Lưc lương hải quân hai bên Vũ-Hữu-San: Các Chiến-hạm & Chiến-thuyền Tham-dự trận Hải-chiến

Lịch sử cuộc chiến VNCH -  Hải Chiến Hoàng-Sa 19-01-1974
Bí Mật Về "Hải Chiến Hoàng Sa 1974" và Những Điều Chưa Biết
Tài liệu Trung Quốc về Hải chiến Hoàng Sa: Lần đầu hé lộ về vũ khí 
Trước khi vào cuộc chiến
"TQ sau 10 năm hổn loạn do Cách mạng Văn hóa, mười năm hỗn loạn, "quân đội không thể được tùy ý". Trong khi đó, tàu chiến của Trung Quốc ngày một già cỗi, cũ kỹ.
Mao Trạch Đông đã yêu cầu “phòng ngự Hoàng Sa phải đạt tiêu chuẩn cao, theo kiểu một pháo đài bất khả xâm phạm mình đồng da sắt”. Một quyết định quan trọng trong cuộc họp được đưa ra là việc xây dựng trên đảo Phú Lâm (phía Trung Quốc gọi là đảo Vĩnh Hưng) thuộc Hoàng Sa của Việt Nam cơ sở hạ tầng để có thể đón tàu hàng ngàn tấn và máy bay phản lực, đồng thời huy động 74 đại đội tàu săn ngầm, tàu đổ bộ tới đóng ở đây, để đảo Phú Lâm được xây dựng thành một cứ điểm quan trọng trong quần đảo Hoàng Sa.
Trung Quốc cũng phái nhiều ngư dân, dân binh đánh đuổi đội lính Việt Nam ở đảo Hoàng Sa. Tuy nhiên, tới đầu năm 1974, sự việc này vẫn chưa giải quyết xong toàn bộ. Việc điều động 74 đại đội và tấn công Hoàng Sa vẫn chưa có kết quả. Trong khi đó, tàu chiến của Trung Quốc ngày một già cỗi, cũ kỹ.
Công tác tình báo hải quân cũng bị tác động không nhỏ. Căn cứ hải quân Ngọc Lâm vốn đặt một trạm tình báo chịu trách nhiệm thu thập, phân tích thông tin tình báo của hải quân miền Nam Việt Nam. Nhưng trạm này đã ngưng hoạt động trong khoảng năm 1970, khiến hải quân Trung Quốc không tài nào nắm bắt được kịp thời hướng hành động của hải quân miền Nam Việt Nam. Công tác chuẩn bị tiền kỳ cho chiến trận của hạm đội tại biển Đông cũng vì vậy bị ảnh hưởng nghiêm trọng và bị động. Căn cứ hải quân Ngọc Lâm phải dựa vào lời tường thuật của các ngư dân để tìm hiểu tình hình Hoàng Sa.
Mãi tới ngày 14.1.1974, căn cứ Ngọc Lâm mới lần đầu tiên thu thập được thông tin về tình hình Hoàng Sa thông qua kênh chính thống. Cũng ngày đó, hạm đội Nam Hải nhận được tin báo rằng tàu chiến của quân đội miền Nam Việt Nam đang hoạt động về phía đông ở vịnh Cam Ranh và thành phố Đà Nẵng, có khả năng sẽ tới Hoàng Sa, nên lệnh cho căn cứ Ngọc Lâm tổ chức một chuyến tuần tra Hoàng Sa, cùng các tàu đánh cá đối phó với quân đội miền Nam Việt Nam.
Lúc này, lãnh đạo của căn cứ hải quân Ngọc Lâm và các cấp đang ở Trạm Giang để tham gia hội nghị tập huấn quân sự thường niên của Hạm đội Nam Hải. Chỉ có phó tư lệnh căn cứ Ngọc Lâm là Ngụy Minh Sâm và Hồ Sinh Huy đều ở lại căn cứ. Độ nhạy bén nghề nghiệp đã khiến hai người sớm đánh hơi thấy mùi chiến tranh tiềm ẩn. Vì vậy công tác chuẩn bị đã được triển khai, hai người sớm phân chia trách nhiệm, họ Ngụy sẽ ra biển chỉ huy, họ Hồ sẽ ở nhà giữ căn cứ.
Năm 1974, lực lượng của hạm đội Nam Hải còn rất mỏng tới mức có thể coi là nghèo nàn. Căn cứ hải quân Ngọc Lâm và cũng là toàn đội tàu chỉ có 4 tàu hộ tống có sức chiến đấu nhất. Con tàu Nam Ninh đã bị hư hỏng nặng đang phải sửa chữa tại Quảng Châu. Ba tàu hộ tống loại mới khác (mang số hiệu 214, 231, 232) có pháo 65 ly, do gặp sự cố hỏng hóc tại các bộ phận như bếp, đài phát thanh, thiết bị truyền tin… cũng đã định ngày chuẩn bị quay về xưởng sửa chữa. Các tàu chiến còn lại, tàu phóng ngư lôi trọng tải nhỏ, phạm vi trên biển rất hạn chế, khó có thể tác chiến ngoài khơi xa. Như vậy họ Ngụy chỉ còn trong tay 6 tàu săn ngầm lớp 6604, mà lúc bấy giờ đang chuẩn bị “về hưu” và được thay bởi tàu săn ngầm mới lớp 037. Các tàu 6604 vốn chỉ được giữ lại để luyện tập.
Thế rồi vào thời khắc đó, cuộc đời chúng bị đổi ngoặt. Hải quân Trung Quốc đã lựa ra 2 chiếc tàu săn ngầm có tình trạng tốt nhất, dồn hết thiết bị còn tốt lại rồi ráp vào hai tàu mang số hiệu 271 và 274 để tới tham gia trận đánh tại Hoàng Sa.Tài liệu TQ, theo báo Thanh niên

Phía VNCH



Lực lượng VNCH trên đảo
Hoàng Sa có 35 Địa phương quân, công binh và nhân viên khí tượng 
Hữu Nhật có 14 Biệt hải do HQ-4 đổ vào đảo
Vĩnh Lạc có 10 Nhân viên cơ hữu thuộc HQ-16 đổ vào đảo

Người nhái 

(tính lúc lên đường)

tham gia có 2 toán biệt hải gồm 31 người do Sở phòng vệ Duyên hải tăng cường, 4 toán hải kích gồm 60 người do Liên đội người nhái tăng cường.

Chốt con số:

Tàu HQ-4 chở 27 Biệt Hải
Tàu HQ-5 chở 49 Hải Kích
Trước khi hải chiến
HQ-5 có 33 hải kích, HQ-16 có 16 hải kích, HQ-4 có 24 biệt hải, riêng HQ-10 không.


 

Tương quan lực lượng Hải quân
VNCH
Tuần dương hạm HQ-5: có khoảng 200 thuỷ thủ và 49 hải kích
Tuần dương hạm HQ-16 có khoảng 200 thuỷ thủ
Khu trục hạm HQ-4: có khoảng 175 thủy thủ và 24 biệt hải (27?)
Hộ tống hạm HQ-10 có khoảng 80 thuỷ thủ

Bảng phân tích quân số tham chiến và thương vong về phía quân VNCH


Hướng tác chiếnQS cơ hữuPhối thuộcTrên tàuTrên bờTại đảoHy sinh theo tàu
HQ-1082



62 Cơ hữu
HQ-520049 Hải kích33 Hải kích

3 Cơ hữu2 Hải kích
HQ-417527 Biệt hải24 Biệt hải14 Biệt hảiHữu Nhật (CT)2 Cơ hữu1 Biệt hải
HQ-16200
16 Hải kích10 Cơ hữuQuang Ảnh (VL)2 Cơ hữu
Địa phương quân


25Hoàng Sa

Công binh


5Hoàng Sa

NV Khí tượng


4Hoàng Sa

NV Lãnh sự Mỹ


1Hoàng Sa

Tổng cộng657767359

3


Tổng quân số: 731


Tổng hy sinh: 74








Hướng tác chiến Hy sinh ở đảoBị thươngTại...Đào thoát sốngTừ...Bị bắtTại...
HQ-10


23Tàu chìm

HQ-52 Hải kích2 Hải kíchQuang Hoà



HQ-4


10Vĩnh Lạc14 Biệt hảiHữu Nhật (CT)
HQ-16






Địa phương quân




25Hoàng Sa
Công binh




5Hoàng Sa
NV Khí tượng




4Hoàng Sa
NV Lãnh sự Mỹ




1Hoàng Sa








Tổng cộng2

33
49




Tổng thoát: 33
Tổng bị bắt: 49
TQ
Hộ Tống hạm Kronstadt (271, 274) có khoảng 65 thuỷ thủ/ tàu
Trục Lôi Hạm T-43 (389 & 396) có khoảng 40 thuỷ thủ/ tàu 
Thuyền cá vũ trang 402 và 407


Lực lượng hải quân Tây Sa hai bên Biểu đồ so sánh
Tác giả: Wei Xinan Popularity: 904 Ngày: 2011/07/15
 
Xisha tàu chiến hải quân được trang bị với quân đội nhân Fact Sheet
 
Hull số
271
274
396
389
281
282
Tổng số
Loại tàu
6604
Chasers Submarine
6604
Chasers Submarine
6610
Vét thủy lôi
6610
Vét thủy lôi
037
Chasers Submarine
037
Chasers Submarine
6
Tiêu chuẩn
Thay thế
227
227
520
520
375
375
2.244 tấn
Nạp vào
Thay thế
320
320
570
570
392
392
2.564 tấn
Tốc độ
18
18
14
14
28
28

Gun loại 1
85/1
85/1

85/1


3
Gun loại 2




Đôi 57/2
Đôi 57/2
4
Gun loại 3

Đôi 37/2
Đôi 37/1


3
Gun-type 4
Độc 37/2
Độc 37/2




4
Gun loại 5


Đôi 25/2
Đôi 25/2
Đôi 25/2
Đôi 25/2
8
Súng máy
12,7 / 3
12,7 / 3
Kép 14,5 / 2
Kép 14,5 / 2


10
Guns
Tổng số
6
6
6
6
4
4
32
Chiến tranh
Số người
97
86
93
90
83
80
529 người
 
Xisha tàu hải quân và trang thiết bị và nhân sự trong chiến tranh Nam Việt Nam Fact Sheet
 
Hull số
16
5
4
10
Tổng số
Tên tàu
Lý Thường Kiệt
Ping cân
Chen Qing Yu
Roughs (sáng chủ nhật)
4
Loại tàu
Trục Mỹ
Trục Mỹ
Trục Mỹ
Tàu khu trục Mỹ

Chuẩn chuyển
2040
2040
1590
650
5.772 tấn
Chuyển tải đầy đủ
2551
2551
1850
945
7.897 tấn
Tốc độ
18
18
Hai mươi mốt
15

Gun loại 1
127 Cannon / 1
127 Cannon / 1


2
Gun loại 2
81 vữa / 2
81 vữa / 2
81 vữa / 2
81 vữa / 1
7
Gun loại 3


76 Cannon / 2
76 Cannon / 1
3
Gun-type 4
Kép 40 súng / 1
Kép 40 súng / 1


2
Gun loại 5
Độc bắn 40/2
Độc bắn 40/2

Độc bắn 40/2
6
Gun-type 6
20 Cannon / 2
20 Cannon / 2
20 Cannon / 2
20 khẩu súng / 6
12
Súng máy
Súng máy / 4
Súng máy / 4
Machine Gun / 5

13
Tổng số súng
12
12
11
10
45
Số lượng thành lập
215
215
170
90
690 người
 


Trước khi rút, Nixon đã ra lệnh để lại thiết bị quân sự tối tân cho Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu, coi như chút trách nhiệm cuối cùng dành cho đồng minh thân thiết. Lúc đó hải quân miền Nam Việt Nam được trang bị hơn 10 tàu chiến tối tân của Mỹ với các trang thiết bị vượt xa hạm đội Nam Hải của Trung Quốc. Vì vậy ông Thiệu đã không hề sợ hãi Trung Quốc.
Hải quân Trung Quốc đã lựa ra 2 chiếc tàu săn ngầm có tình trạng tốt nhất, dồn hết thiết bị còn tốt lại rồi ráp vào hai tàu mang số hiệu 271 và 274 để tới tham gia trận đánh tại Hoàng Sa.
Báo Thanh niên dẫn lại từ đài Phượng Hoàng

Phân tích về khả năng của VNCH và Trung Cộng sau khi đã chiếm đoạt Hoàng Sa vào tháng 1 năm 1974.Thềm Sơn Hà: LỰC LƯỢNG TRUNG CỘNG TRONG BIẾN CỐ HOÀNG SA

Các Chiến-hạm & Chiến-thuyền Tham-dự trận Hải-chiến Hoàng-Sa Ngày 19-1-1974
Vũ-Hữu-San
    Hải-Quân Việt-NamCộng-Hoà:
HQVN có 4 chiếc tàu sau đây:
- HQ 4 Khu-Trục-Hạm tiếng Mỹ là Destroyer Escort, Radar picket -DER, trang-bị radar rất mạnh. VNCH sử-dụng như chủ-lực-hạm của Hạm-Đội.
-  HQ 5 & HQ 16 Tuần-Dương-Hạm tiếng Mỹ là High Endurance Cutter - HEC, nguyên là loại Tuần-Duyên-Hạm của US Coast Guard chuyển-giao, dùng tuần-dương.
- HQ 10 Hộ-Tống-Hạm tiếng Mỹ Patrol Craft, Escorted -PCE.


Hải-Quân Trung-Cộng:

Hải Quân Trung Cộng theo Bộ Dân-Vận & Chiêu-Hồi viết trong sách "Hoàng Sa - Lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa" (tháng 3-1974) có hình vẽ tượng-trưng các tàu thuyền Việt-Nam & Trung-Cộng (các trang 23 & 25):
Lực lượng ta hiện diện gồm có 4 chiến hạm.
Phía địch vào sáng 19-1-1974 có:
4 chiến hạm lớn,
2 tàu vũ trang nhỏ,
1 tàu chuyển vận loại trung và
1 pháo hạm không rõ loại.

Hải Quân Trung Cộng theo Hải-Sử Tuyển-Tập
Địch:
- 02 chiến hạm Kronstadt (271 và 274) trang bị đại bác 100 ly (1), 2 đại bác 37 ly, vận tốc 24 gút.
- 02 chiến hạm loại T43 (389 - 396) cải biến trang bị 1 đại bác 100 ly (2), 4 đại bác 37 ly. Vận tốc 17 gút.
- 02 tàu đánh cá võ trang đại bác 25 ly.
- 01 tàu chuyển-vận loại trung 2400 tấn
- Các tàu buồm & Pháo-hạm.

Hải Quân Trung Cộng theo "Tuyên cáo của Bộ Trưởng Ngoại giao Việt Nam Cộng Hoà về những hành động gây hấn của Trung cộng trong khu vực đảo Hoàng sa ngày 19.1.1974" thì Lực lượng Hải-quân Trung-Cộng gồm 11 chiến đỉnh thuộc nhiều loại và trọng lượng khác nhau, kể cả một tàu loại Komar có trang bị hỏa tiễn (3).
Nhà nghiên-cứu Trần-Đỗ-Cẩm phân-tích ra 11 chiếc tàu đủ loại đó gồm có:
- 2 Hộ Tống Hạm chống tàu ngầm (Submarine Chaser) loại Kronstadt mang số 271 & 274.
- 2 chiếc Trục Lôi Hạm (tàu rà mìn) loại T-43 mang số 389 & 396 trực tiếp tham chiến là có hỏa lực đáng kể.
Những chiếc khác là tàu chở quân hay ngư thuyền võ trang.
Ngoài ra, còn có 2 Kronstadt mang số 281 và 282 tới sau trận hải chiến.

Tổng kết tất cả, Lưc-lượng xâm-lăng Trung-Cộng gồm 13 chiếc tàu nhiều loại:
- 2 Hộ Tống Hạm săn tàu ngầm (Submarine Chaser) kiểu Liên-Xô Kronstadt mang số 271 & 274. Trung-Cộng gọi là Liệp-Tiềm-Đinh Kronstadt.
- 2  Trục Lôi Hạm (Mine Sweeper) loại T-43 mang số 389 & 396. Trung-Cộng gọi là Tảo-Lôi-Hạm.
- 2 Hộ-Tống-Hạm cao-tốc  30.5 gút (High Speed Patrol Craft) mang số 281 và 282. Hainan Type 037 Trung-Cộng gọi là Liệp-Tiềm-Đĩnh Hainan lớp 037.
- 2 Ngư thuyền tên Nam Ngư (Nan Yu thuộc Công-Ty Hải-Nam Ngư-Nghiệp) mang số 402 & 407, võ trang nặng & trang-bị các tiểu-đinh cao-tốc để đổ-bộ.
- 1 Quân-Vận-Đĩnh đổ-bộ quân tăng-cường.
- 1 Pháo hạm không rõ loại, cột buồm cao (4)
- 1 tàu chuyên-chở loại trung 2400 tấn (5).
- 1 tàu buồm.
- Chiếc thứ 13 là một tiểu-đĩnh xung-phong vỏ bọc sắt, luôn-luôn chạy phía sau của tàu võ-trang Nam-Ngư. (9)

(1) Chinh-xác là Đại-bác 85 ly nòng dài.
(2) Chinh-xác là Đại-bác 85 ly nòng dài.
(3) Cá-nhân tôi không nhìn thấy.
(4) Cá-nhân tôi không nhìn thấy, có thể sau đảo hay rạn san-hô.
(5) Cá-nhân tôi không nhìn thấy, có thể sau đảo hay rạn san-hô.
(6) HQ Hoa Kỳ báo cáo có 11 tàu TrungCông. Trong biên bản hai cuộc họp về vấn đề Ðông Dương ngày 25/1/1974 và ngày 31/1/1974 do ngoại trưởng Henry Kissinger chủ trì, Đô-Đốc Thomas H. Moorer, chủ tịch Hội đồng Tham mưu Liên quân báo cáo: “Chúng ta đã tránh xa vấn đề... Một đội tuần tra của Nam Việt Nam trong khu vực phát hiện một số tàu Trung Quốc tiến về các đảo; họ tiến đến và đưa khoảng 75 người lên đảo Duncan (Quang Hòa). Ðó là một trong các đảo phía nam của nhóm Nguyệt Thiềm. Họ phải đối đầu với hai đại đội Trung Quốc. Phía Nam Việt Nam phải rút sang các đảo gần đó. Bốn tàu Nam Việt Nam và khoảng 11 tàu Trung Quốc sau đó có trận hải chiến trong khi quân Nam Việt Nam rút lui”.
Ngoài ra, theo hồi-ức của Tướng HQ Trung-Cộng Nguỵ-Minh-Sâm thì thông-thường có 10 thuyền đánh cá đi theo 2 tàu cá võ-trang để hành nghề. Trong khi 2 lực-lượng đụng trận, cá nhân tôi nghĩ là chúng đã chạy đi ẩn-nấp.

Hình vẽ tượng-trưng các tàu thuyền Việt-Nam & Trung-Cộng trong sách của Bộ Dân-Vận & Chiêu-Hồi"Hoàng Sa - Lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa", tháng 3-1974, trang 23.
 Theo tài-liệu Trung-Cộng "Hải chiến Tây Sa Trung – Việt - Ghi chép đầy đủ ngày 7-7-1974" (Quốc Thanh dịch), ngoài các chiến-hạm chiến-đĩnh kể trên, Trung-Cộng đã nhanh chóng điều-động thêm một số rất lớn tàu chiến tới biển Hoàng-Sa, tổng cộng 15 tàu ngay sau đó:
"Đêm ngày 19 tháng 1, hạm đội hải quân Nam Hải tuân theo chỉ thị của cấp trên đã nhanh chóng điều tổng cộng 15 tàu, gồm 1 tàu cứu hộ, 1 tàu  chống ngầm, 8 tàu cứu hộ loại nhỏ, 5 tàu ngư lôi, vận chuyển 3 đại đội thuộc trung đoàn 10 pháo đài đồn trú Du Lâm, 2 đội trinh sát cùng một bộ phận các phân đội và dân binh tăng cường thuộc Quân khu Quảng Châu, tổng cộng 508 người, lần lượt tới vùng biển quần đảo Vĩnh Lạc từ 4 giờ 30 phút đến 8 giờ ngày 20, với sự yểm hộ của hàng chục lượt máy bay chiến đấu của lính hàng không thuộc Hạm đội Nam Hải. Chuẩn bị thu hồi lại các đảo đã bị quân đội Nam Việt xâm chiếm, đồng thời đánh các tàu Nam Việt có khả năng tái xâm nhập".
Nói chung lại, tàu TC lúc đó không còn là 13 chiếc, mà tổng số đã vọt lên 28 chiếc tham-sự chiến-dịch, trong đó thêm một tàu vận-tải rất lớn bị tổn-thất vì lỗi hải-hành, va vào đá ngầm: đại hình vận thâu thuyền hướng tiền phương vận du liêu  bất liêu cai thuyền hàng tuyến bất thục  tại quỷ tiều các thiển  án thao điển ứng phóng du phù khởi ...(hồi ức của tướng Tư-Lệnh Nguỵ-Minh-Sâm: quý sửu hải chiến —— tây sa hải chiến bất hoàn toàn báo cáo).


Blogger Nguyễn Thanh Tùng trên blog Đôi Mắt đã vẽ ra table sau đây về tương quan lực lượng tham chiến ở Hoàng Sa năm 1974, có dẫn nguồn đầy đủ về các thông số kỹ thuật từ các chuyên trang Global Security và Wikipedia Anh ngữ cho từng loại tàu. Mời các bạn xem:

Hải quân VNCH Hải quân Trung Quốc
Tàu tuần dương HQ-5 (Trần Bình Trọng): Soái hạm

Nguyên là tàu Castle Rock (WHEC 383) thuộc lực lượng tuần duyên Hoa Kỳ. Được chuyển giao cho HQVNCH vào ngày 21-12-1971.

- Trọng tải: 1766 tấn tiêu chuẩn, 2800 tấn tối đa

- Kích thước: dài 94,72m, ngang 12,56m, mớn nước 4,17m.

- Vận tốc tối đa: 18 knots (33.7 km/h).

- Vũ khí: 1 khẩu 127 ly (5 inch) phía trước mũi, 1 đại bác 40 ly đôi cũng ở sân trước nhưng ở sân thượng phía trên khẩu 127 ly, 2 khẩu 40 ly bên tả và hữu hạm tại sân sau và 2 khẩu đại bác 20 ly đôi ở hai bên hông đài chỉ huy. Nguyên thủy khi chuyển giao, HQ-5 chỉ có đại bác 127 ly, sau này Hải Quân Công Xưởng gắn thêm các ụ đại bác 40 ly để tăng cường hỏa lực tác chiến.

- Thủy thủ đoàn: chừng 200 người.

Tuần Dương Hạm là loại chiến hạm lớn nhất của HQVN và có súng cỡ 127 ly cũng lớn nhất. Các loại vũ khí chống tàu ngầm đã bị cắt bỏ khi chuyển giao cho HQVN.

"Soái hạm" này có truyền thống là bỏ chạy theo ngoại nhân: Trong trận Hoàng Sa thì bỏ đồng đội chạy sang Philippine, rồi lại theo lối cũ mò sang dâng xác cho Philippine khi miền Nam được giải phóng.
2 tàu săn ngầm lớp Kronstadt: 271 & 274

Hai chiếc này thuộc loại chống ngầm loại nhỏ của Liên Xô, được lắp ráp tại TQ với tên gọi Kiểu 6604.

- Trọng tải: 289 tấn.

- Dài: 52,24m; Rộng: 6,55m; Mớn nước: 2,2m

- Vận tốc tối đa: 20,5knots (38km/h)

- Vũ khí: 1 pháo 85 mm (mà các lều báo "nhai lại" của các vị "quân nhục VNCH" rằng 100 ly) , 1 súng pk 37 mm, 1 súng phòng không 25 mm, thiết bị chống ngầm.

Tài liệu TQ giải mật sau này mô tả về 2 tàu này như sau:

Năm 1974, lực lượng của hạm đội Nam Hải còn rất mỏng tới mức có thể coi là nghèo nàn. Căn cứ hải quân Ngọc Lâm và cũng là toàn đội tàu chỉ có 4 tàu hộ tống có sức chiến đấu nhất. Con tàu Nam Ninh đã bị hư hỏng nặng đang phải sửa chữa tại Quảng Châu. Ba tàu hộ tống loại mới khác (mang số hiệu 214, 231, 232) có pháo 65 ly, do gặp sự cố hỏng hóc tại các bộ phận như bếp, đài phát thanh, thiết bị truyền tin… cũng đã định ngày chuẩn bị quay về xưởng sửa chữa. Các tàu chiến còn lại, tàu phóng ngư lôi trọng tải nhỏ, phạm vi trên biển rất hạn chế, khó có thể tác chiến ngoài khơi xa. Như vậy họ Ngụy chỉ còn trong tay 6 tàu săn ngầm lớp 6604, mà lúc bấy giờ đang chuẩn bị “về hưu” và được thay bởi tàu săn ngầm mới lớp 037. Các tàu 6604 vốn chỉ được giữ lại để luyện tập.

Thế rồi vào thời khắc đó, cuộc đời chúng bị đổi ngoặt. Hải quân Trung Quốc đã lựa ra 2 chiếc tàu săn ngầm có tình trạng tốt nhất, dồn hết thiết bị còn tốt lại rồi ráp vào hai tàu mang số hiệu 271 và 274 để tới tham gia trận đánh tại Hoàng Sa.


Tàu tuần dương HQ-16 (Lý Thường Kiệt)

Nguyên thuộc lực lượng tuần duyên Hoa Kỳ, trước đây mang tên Chicoteague (WHEC 375). Được chuyển giao cho HQVNCH vào ngày 21/6/1972. Tàu có đặc tính tương tự như HQ-5.

2 Tàu rà mìn T-43: 396 & 389

Đây là những con tàu rà mìn Kiểu 010 do TQ sản xuất nhái theo phiên bản lớp T-43 của LX.

- Trọng tải: 590 tấn

- Dài: 59,94m; Ngang: 8,38m; Mớn nước: 2,06m.

- Vận tốc tối đa: 14knots (26 km/h)

- Thủy thủ đoàn: 70 người

- Vũ khí: 2 pháo đôi 37mm (không phải pháo 85mm như các báo đưa tin); 2 pháo đôi 25mm; 2 pháo đôi 14,5mm; 2 dàn thủy lôi.

Tàu khu trục HQ-04 (Trần Khánh Dư)

Nguyên là USS Forster DER 334 của Hải Quân Hoa Kỳ.

Được chuyển giao cho HQVN vào ngày 25/9/ 1971

- Trọng tải: 1.590 tấn tiêu chuẩn, 1.850 tấn tối đa.

- Kích thước: dài 93m; ngang 11,5m; mớn nước 3,18m.

- Vận tốc tối đa 21 knots (39km/h).

- Thủy thủ đoàn: 175 người.

- Vũ khí: 3 pháo 76mm (3 inches) bắn bằng điện 20 phát / phút; 2 pháo phòng không 40mm; 8 pháo phòng không 20mm; 3 ống phóng lôi 530mm.

Được trang bị radar TACAN, là tàu chiến chủ lực của hạm đội.

Tàu đánh cá vũ trang Nan Yu và "tiểu đĩnh bọc sắt"

Các bài viết về sự kiện Hoàng Sa cho rằng có khoảng 6 chiếc tàu đánh cá được trang bị vũ khí trong khu vực quần đảo Hoàng Sa bấy giờ, cùng 1 số thứ gọi là "tiểu đĩnh bọc sắt" (tức ca nô). Mặc dù không có ghi chép nào về việc các tàu này tham dự trực tiếp vào trận chiến nhưng các tàu cá được trang bị vũ khí bộ binh này cũng được tính vào "lực lượng tham chiến của Trung Cộng" để tạo thành "một lực lượng hùng hậu" của đối phương.

Tác dụng chính của các tàu này là để do thám, thám sát, theo dõi, dò xét thủy đạo, địa hình, chuyên chở quân lính,...

Những tàu loại này cũng tương tự như các tàu đánh cá vũ trang của TQ đang gây hấn tại Trường Sa nhưng lạc hậu hơn nhiều.



Tàu hộ tống HQ-10 (Nhựt Tảo)

Nguyên là USS Serene (MSF 300), dùng để rà mìn ngoài đại dương (MSF - Mine Sweeper Fleet). Được chuyển giao cho HQVN vào tháng 1/1964.

- Trọng tải 650 tấn tiêu chuẩn, 945 tấn tối đa.

- Dài 56,24m, ngang 10m, mớn nước 2,97m.

- Vận tốc tối đa 14 knots (27,4km/h).

- Vũ khí: 1 pháo 76 ly lộ thiên ở sân trước, 2 pháo 40 ly đơn bên tả và hữu hạm ở sân giữa, 4 pháo20 ly đôi ở hai bên đài chỉ huy và ở sân sau.

- Thủy thủ đoàn chừng 80 người.

Khi được chuyển giao cho HQVN, chiến hạm được biến cải từ tàu vớt mìn thành tàu hộ tống. Các dụng cụ rà mìn được cắt bỏ. Các vũ khí chống tàu ngầm được thêm vào gồm 2 giàn thả thủy lựu đạn (depth charge) ở sân sau và một giàn phóng thủy lựu đạn loại Hedgehog ở sân trước.

2 tàu săn ngầm lớp T-037: 281 và 282

Còn gọi là tàu săn ngầm lớp Hainan, là thế hệ tàu săn ngầm mới (lúc đó) do Trung Quốc tự đóng để thay thế cho loại Kronstadt.

Hai con tàu này thực ra không đóng vai trò đáng kể trong trận hải chiến nhưng dẫu sao vẫn được tính vào "lực lượng hùng hậu của Trung Cộng" vì: (1) Soái hạm HQ-5 của VNCH đã cong đít chạy khi phát hiện 2 tàu này trên radar (và các vị "anh hùng" sau đó lu loa rằng đây là tàu tên lửa cao tốc Komar và được báo GDVN trang trọng giới thiệu); (2) hai tàu này đã "đóng đinh" vào chiếc quan tài cho cái xác HQ-10 chìm xuống biển sâu khi mà nó bị các đồng đội bỏ rơi.

- Trọng tải: 390 tấn

- Dài: 58,77m; ngang: 7,2m; mớn nước: 2,2m.

- Tốc độ: 30,5 knots (56,5 km/h)

- Thủy thủ đoàn: 70 người

- Vũ khí: 2 pháo đôi 57mm, 2 pháo đôi 25mm bắn nhanh , 4 ống phóng bom chìm RBU1200 (mà các "anh hùng" và "lều báo" phong làm "hỏa tiễn diệt hạm").



Qua các thông số từ các chuyên trang Global Security và Wikipedia Anh ngữ cho từng loại tàu kể trên, thì có thể thấy rõ: Trong hải chiến Hoàng Sa, hải quân Sài Gòn chiếm ưu thế tuyệt đối về hỏa lực và hơn hẳn về độ giãn nước. Chưa kể các yếu tố công nghệ hiện đại hơn, đảm bảo độ chính xác tốt hơn nhờ có sự hỗ trợ của pháo tự động.

Tác chiến trên biển chủ yếu là các cuộc đấu pháo giữa các tàu, và yếu tố giãn nước cũng như hỏa lực, cỡ nòng pháo, là có vai trò quan trọng bậc nhì. Không quân và máy bay quân sự với tốc độ, tốc lực, hỏa lực sát thương bỏ xa tàu chiến, là quan trọng bậc nhất và có vai trò quyết định trong một cuộc hải chiến. Về tổng thể, hải quân Sài Gòn có ưu thế tuyệt đối.

Thật ra với độ chênh lệch lực lượng đó thì chỉ cần một mình tàu HQ-04 tham chiến thì vẫn có thể đánh chìm 6 tàu Trung Quốc bằng các pháo bắn nhanh 76mm. Vậy tại sao hải quân Sài Gòn lại "thất bại"? Phải chăng "thất bại" từ những tiêu cực, khuất tất phía sau, thậm chí là phản bạn, "bán độ"?

Không phải ngẫu nhiên mà đại tá Nguyễn Thành Trung, cựu phi công không quân Sài Gòn, đã cho biết nếu kế hoạch tái chiếm Hoàng Sa được triển khai, trong đó có lực lượng không quân, thì khả năng chiến thắng là 100%, bởi vì theo kiến thức quân sự của ông, máy bay F5 của không quân Sài Gòn thừa sức từ Đà Nẵng bay ra phía tây Hoàng Sa tác chiến. Ông khẳng định nếu phi đội của ông bay ra Hoàng Sa từ Đà Nẵng thì có thể chiến đấu được khoảng nửa giờ và quay về.

Còn Trung Quốc thời đó không máy bay nào đủ sức từ Hải Nam bay ra Hoàng Sa tác chiến và quay về. Một bên có tàu to lớn hơn, tốt hơn, hỏa lực mạnh hơn, và có không quân. Bên kia không có không quân, phòng không yếu ớt cũ kỹ, với những tàu rà mìn và tàu cá vũ trang lạc hậu. Như vậy khả năng chiến thắng, theo ông, là 100%. Ông cũng cho biết là chiến dịch tái chiếm Hoàng Sa bị Nguyễn Văn Thiệu hủy bỏ vì người Mỹ không cho phép.

Theo hạm trưởng Lê Văn Thự quan sát thì Trung Quốc không có súng đại liên (thông thường cơ hữu của Tiểu đội) và máy truyền tin đơn vị (thường cơ hữu của Trung đội). Ông cho rằng điều này cho thấy là Trung Quốc đã biết trước là sẽ không có thể xảy ra sự kháng cự đáng kể nào từ phía Sài Gòn.

Theo ông thì quân đồn trú Sài Gòn đã bị áp đảo và kháng cự yếu ớt, ngoài ra Trung Quốc chỉ sử dụng một lực lượng vừa đủ để đoạt lấy Hoàng Sa. Chỉ có HQ-4 là tối tân nhất, các súng đều sử dụng bằng điện, tốc độ bắn nhanh, radar có tầm xa, vận tốc chiến hạm cao. Nhưng HQ-4 lại không xung trận.

Ông nói: "Lúc trước, Sở Phòng vệ Duyên Hải ở Đà Nẵng có loại tàu PT chuyên đi bắn phá phía bắc vĩ tuyến 17 là loại chiến hạm thích hợp với trận chiến Hoàng Sa. Nhưng tôi nghe nói Hoa Kỳ đã thu hồi lại loại tàu này khi họ rút quân khỏi Việt Nam, trước ngày trận chiến Hoàng Sa xẩy ra."

Như vậy, đề nghị các cơ quan báo chí kiểm tra rà soát lại tất cả các "bài báo" vừa rồi về hải chiến Hoàng Sa, gỡ bỏ hay ít nhất chỉnh sửa lại các thông tin và thông số sai sự thật. Đây là thời buổi Internet rất dễ truy cập thông tin nhanh qua Google, Wikipedia, cả Facebook và các mạng xã hội, chỉ cần một điểm sai thôi là cả thiên hạ đều biết rồi đem ra chê cười, làm tổn hại uy tín báo chí, mà các ông làm báo y như thời ăn lông ở lỗ, tuyên truyền kiểu Hitler, Đức Quốc Xã, không cần biết người khác nghĩ gì, làm xấu hổ báo chí, biến báo chí nước ta trở thành trò cười.

Không chỉ chỉnh sửa thông tin và tôi đề nghị sửa lại hết những cách đưa tin. Cách đưa tin kiểu ca ngợi, "vinh danh" như vậy là không đúng, không phù hợp. Bây giờ dù cho cố tưởng tượng ra cuộc kháng chiến chống Mỹ ở VN chưa bao giờ tồn tại, mà chỉ có "nội chiến Nam - Bắc phân tranh" thôi, và "Nam Việt Nam là 1 quốc gia hoàn toàn độc lập", thì cứ cố tin như vậy đi, thì cũng vẫn không thể ca ngợi, vinh danh.

Ông vinh danh cái gì? Bắn bạn, bỏ chạy, thua to, mất đảo. Vinh danh gì ở đây? Chưa truy cứu hỏi tội bắt tội là may. Làm cái gì cũng phải dựa trên sự thật khách quan. Chứ đâu thể bất chấp tất cả, duy ý chí, lừa gạt bản thân và lừa gạt người khác như bọn phát xít như vậy được.

Ông Dương Trung Quốc hay nói VN là "ốc đảo dị thường", vậy thì sự kiện đưa tin bừa bãi và đầy sạn, và cách đưa tin của một bộ phận báo chí vừa qua chính là một biểu hiện của "ốc đảo dị thường" đó, sao ông không lên tiếng, mà còn phụ họa theo?

Có ai trên thế giới này đưa tin về sự kiện hải chiến Hoàng Sa theo cái kiểu của một số báo chí VN vừa qua không? Có ai ghi mấy thông số kỹ thuật xanh rờn vào các loại tàu nói trên hay không? Có ai phán TQ dùng MiG rải bom Hoàng Sa hay không? Có ai kêu gọi, hay thậm chí ủng hộ ca ngợi, vinh danh hải quân Sài Gòn ở Hoàng Sa hay không? Thậm chí, có ai quan tâm đến sự kiện đó hay không? Có bao nhiêu nguồn tin nói về nó rồi? Thế giới người ta đâu có điếc, người ta đâu có ngu, nhưng người ta đánh giá đúng "tầm vóc" của sự kiện đó. Mà cái "tầm vóc" của sự kiện này rõ ràng không to lớn như những gì một bộ phận báo chí đã xuyên tạc, phóng đại, thổi phồng lên vừa qua.

Qua sự việc vừa rồi, có nhiều dư luận cho rằng các tài liệu chính thức của ngụy bịa đặt hư cấu và tiểu thuyết hóa hải chiến Hoàng Sa là để chạy tội cho ai đó, có khuất tất gì trong đó. Bởi vì với lực lượng không quân lớn thứ ba thế giới về chất lượng trang bị đó, đồng thời rất nhiều người làm chứng là nó hoàn toàn thừa khả năng bay ra Hoàng Sa chiến đấu và quay về, thì không có cách nào, không có lý do gì mà có thể để thua, để Hoàng Sa rơi vào sự kiểm soát Trung Quốc. Và cho dù thua thì cũng không có lý do chính đáng nào để mà hủy bỏ chiến dịch lấy lại Hoàng Sa.

So sánh tương quan tổng thể lực lượng thì Hoàng Sa không thể rơi vào tay Trung Quốc được, không có cách nào. Tàu hải quân Sài Gòn tuy không phải tối tân gì nhưng vẫn hơn tàu Trung Quốc, như đã dẫn chứng ở trên qua các thông số kỹ thuật.

Không quân Sài Gòn bay ra Hoàng Sa chiến đấu được, không quân Trung Quốc không thể bay ra Hoàng Sa chiến đấu, như cựu phi công không quân Sài Gòn Nguyễn Thành Trung đã cho biết. Vậy đúng như ông ta nói, khả năng chiến thắng là 100% chứ còn gì nữa!

Và như trung tá Lê Văn Thự cho biết rằng "họ cho trôi xuôi luôn" không họp hành rút kinh nghiệm gì cả để tái chiến lần 2. Nghĩa là ngay từ khi mới vào bờ quay về thì cả hải quân ngụy, quân đội ngụy, cả hệ thống chính trị ngụy Sài Gòn đã xác định là không đánh đấm gì nữa, "cho trôi xuôi luôn"? Phải chăng những ồn ào về "chiến dịch tái chiếm HS" cũng chỉ để làm màu là chính?

Thay vì ca ngợi, "vinh danh", có lẽ nên lập ra một ủy ban điều tra lại về những gì thật sự xảy ra ở Hoàng Sa. Hiện nay số nhân chứng vẫn còn nhiều, đa số họ im lặng không nói, nhưng nếu không điều tra lại thì sau này họ già rồi qua đời thì không còn nhân chứng nữa. Tử vô đối chứng.

Không quân lớn thứ ba thế giới ngồi nhìn Trung Quốc chiếm Hoàng Sa

Từ lúc chính phủ Mỹ xâm lược Việt Nam cho đến năm 1974, không quân Sài Gòn được Mỹ trang bị và xây dựng thành đội máy bay cường kích lớn thứ 3 thế giới, chỉ sau Liên Xô và chính quốc Hoa Kỳ. Đó là lý do vì sao lúc đó và cả sau này nhiều lính ngụy hay "tự hào" rằng "VNCH có không quân thứ 3 thế giới".

Dĩ nhiên về tổng thực lực thực chất (tính đến cả mức độ tinh nhuệ thiện chiến, tinh thần chiến đấu và năng lực chiến đấu thật sự) thì lực lượng này đương nhiên không thật mạnh đến mức thứ 3 thế giới, nhưng nói chung vẫn rất mạnh, và quá mạnh nếu so sánh với quân chủng không quân và hải quân sơ khai của Trung Quốc, cũng như lực lượng phòng không lạc hậu cũ kỹ có cũng như không của họ.

Xin lưu ý trong các cuộc chiến của quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc trước đó, như kháng chiến chống Nhật và quân phiệt, nội chiến Quốc - Cộng, và chiến tranh Triều Tiên thì quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc và các lực lượng tiền thân của nó như Hồng quân Công-Nông, Bát Lộ quân, Tân Tứ quân đều chỉ đánh trên bộ, họ chỉ có bộ binh.

Sau khi thống chế Tưởng Giới Thạch và Quốc Dân đảng bỏ chạy ra Đài Loan cát cứ, thì CHND Trung Hoa vẫn không chiếm được các đảo Kim Môn và Mã Tổ của Đài Loan chỉ cách họ vài km.

Nên có thể thấy rằng nếu quân đội CHND Trung Hoa có năng lực đánh chiếm Hoàng Sa ở rất xa, thì từ lâu họ đã thống nhất các đảo Kim Môn và Mã Tổ sát gần bên họ về với chính quốc Đại Lục.

Năm 1974, Trung Quốc vẫn đang chìm trong nghèo đói, nợ nần do hậu quả của chính sách "Đại nhảy vọt" gây ra trước đó. Họ chẳng những chưa thoát khỏi hậu quả của "Đại nhảy vọt", mà còn đang chia rẽ nội bộ chính trị xã hội, đất nước Trung Quốc lúc bấy giờ đang bị phân hóa loạn lạc bởi "Cách mạng văn hóa" (1966-1976), bị bà Giang Thanh và Tứ nhân bang (Bè lũ bốn tên) thao túng lũng đoạn phá hoại, nhà cải cách Đặng Tiểu Bình lúc đó chưa có quyền lãnh đạo.

Nói cách khác, với trình độ khoa học kỹ thuật và hiện thực lạc hậu, tình hình nghèo khó, chia rẽ nội bộ chính trị xã hội của Trung Quốc và quân đội của họ, thì trong năm 1974 hải quân Trung Quốc sơ khai đó không có khả năng thắng lợi nếu thật sự xảy ra một trận hải chiến.

Hệ thống phòng không Trung Quốc gần như con số 0. Họ chỉ có pháo phòng không bắn máy bay cánh quạt thời Thế chiến II, ngắm bắn thủ công, tốc độ rất chậm. Không có các thiết bị phòng không hiện đại.

Loại tháp pháo phòng không mạnh nhất của Trung Quốc là tháp pháo 2 nòng 57mm dùng trên tàu, nó còn ít chức năng hơn nhiều tháp pháo thời Thế chiến II, ngắm bắn thủ công. Các pháo thuộc loại "đồ cổ" này có tốc độ bắn cực kỳ chậm, tốc độ đầu đạn thấp. Khi bắn các máy bay phản lực thì chúng đã quá lạc hậu.

Điều mỉa mai là tổng cộng toàn bộ hạm đội Trung Quốc chỉ có vài nòng pháo phòng không 37 và 57 "đồ cổ" này là đáng kể. Cho nên có thể nói hệ thống phòng không Trung Quốc, đặc biệt là phòng không trên tàu, là con số 0. Có nghĩa là nếu không quân Sài Gòn mà xuất kích thì lính phòng không Trung Quốc sẽ phải dùng súng chuyên bắn máy bay cánh quạt của Thế chiến II để bắn máy bay phản lực hiện đại của năm 1974. Chẳng khác nào dùng súng phòng không của thập niên 1970, 1980 để bắn máy bay quân sự của thập niên 2010 ngày nay.

Có thể thấy, nếu không quân Sài Gòn xuất kích thì Trung Quốc phải bó tay không hề có một cách nào đối kháng. Chính vì thế Trung Quốc cũng không dám đánh mạnh từ đầu, mà dò ý dần, và khi họ thấy những "dấu hiệu", "đèn xanh?", thì bọn họ mới đánh tới. Trung tá Lê Văn Thự quan sát cũng cho biết Trung Quốc có vẻ dè dặt và không có nỗ lực mạnh mẽ quyết đoán đánh lấy Hoàng Sa.

Không quân Sài Gòn có thể bay ra Hoàng Sa chiến đấu và quay về hay không?

Trả lời phỏng vấn báo Sài Gòn Tiếp Thị, cựu phi công Sài Gòn Nguyễn Thành Trung đã cho biết năm 1974 phi đội của ông nếu từ Đà Nẵng bay ra Hoàng Sa thì đánh nửa tiếng vẫn thừa dầu bay về. Trong khi thời điểm đó Trung Quốc chưa có máy bay nào khả dĩ bay ra Hoàng Sa rồi về được, không quân Trung Quốc lúc đó gần như con số 0. Như vậy, nếu chiến dịch chiếm lại Hoàng Sa có diễn ra thì khả năng chiến thắng đích thị là 100%! Bởi vì không quân, với các máy bay oanh tạc vốn nhanh hơn gấp ngàn lần các tàu chiến, là yếu tố quyết định giành thắng lợi trong hải chiến.

Như đã phân tích, lúc đó hải quân Trung Quốc rất yếu, đa phần các tầu Trung Quốc tham chiến năm 1974 là tàu nhỏ, cũ, lạc hậu, chủ yếu được dùng để tuần tra và huấn luyện. Phòng không trên các tàu Trung Quốc gần như là số 0, trong khi không quân Sài Gòn có phi đội máy bay ném bom lớn thứ 3 thế giới.

Do đó, không có lý do nào để Trung Quốc có thể chiếm được tây Hoàng Sa. Trừ phi có những kế hoạch phía sau. Có "tay trong", có kẻ "bán độ". Có lẽ hải quân Trung Quốc cũng không hề biết, họ như thiên lôi sai đâu đánh đó, ban đầu họ cũng chỉ thử, họ không tin ngay nổi là họ có thể dễ dàng lấy được quần đảo.

Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại xác nhận trên BBC Việt ngữ như sau: "Từ khi tôi biết được có sự xuất hiện bất thường của quân Trung Cộng ở vùng bán đảo Hoàng Sa, cố vấn Mỹ bên cạnh tôi không một phút nào tán đồng lệnh của tổng thống Thiệu và các biện pháp tôi dùng trước và trong cuộc chiến. Khi tôi cho tăng viện thêm chiến hạm thì chính ông ta là người hăm dọa tôi là sẽ có phản lực cơ Trung Cộng tấn công chiến hạm của Hải Quân VNCH do đó tôi mới xin Không Quân VNCH tại Đà Nẵng ra nghênh chiến. Các phi vụ không thực hiện được vì theo tư lịnh Sư Đoàn 1 Không Quân (Chuẩn tướng Nguyễn Đức Khánh) cho biết chỉ chiến đấu được có 15 phút vì quá xa, quá nguy hiểm."

Như vậy, ông Hồ Văn Kỳ Thoại đã gián tiếp cho biết rằng chiến dịch chiếm lại Hoàng Sa không diễn ra là vì người Mỹ không tán đồng. Và lý do được một số người không quá mức vô sỉ (những kẻ bảo rằng máy bay Mỹ do ngụy sử dụng không bay ra được HS) đưa ra để biện hộ cho việc hủy bỏ chiến dịch là vì "máy bay chỉ chiến đấu được có 15 phút", có lẽ họ nói giảm xuống thành 15 phút để củng cố sự biện minh của họ cho việc hủy bỏ kế hoạch tái chiếm Hoàng Sa.

Tuy nhiên, dù cho chỉ có chiến đấu được 15 phút rồi quay về đi nữa thì khả năng thất bại của Trung Quốc, khả năng thắng trận của quân đội Sài Gòn vẫn là 100% như đại tá Nguyễn Thành Trung xác nhận. Bởi vì toàn hải chiến Hoàng Sa vốn cũng chỉ diễn ra trong khoảng 15-20 phút theo lời kể của trung úy Trần Kim Diệp, sĩ quan tình báo bên cạnh đại tá Hà Văn Ngạc ở Bộ tư lệnh hành quân của hải quân Sài Gòn.

Thử nghĩ cả chục máy bay F5 của Mỹ do không quân Sài Gòn sử dụng đều bay ra Hoàng Sa xuất phát từ những mốc thời gian khác nhau, thì họ hoàn toàn có thể duy trì rải bom oanh tạc xuống đầu quân Trung Quốc trong thời gian dài. Đâu có ai bắt anh đem tất cả máy bay ra cùng 1 lúc? Mà anh đổ thừa là chỉ đánh được có 15 phút? Anh hoàn toàn có thể cho máy bay này tiếp chiến và thay thế máy bay kia cơ mà.

Thậm chí, chỉ cần 5-10 phút trợ chiến cho các đoàn tàu thì cũng quá đủ để san bằng lực lượng gọi là "hải quân" mỏng manh lạc hậu của Trung Quốc năm 1974, hầu như chỉ có những tàu rà mìn và tàu cá vũ trang cũ kỹ, sét rỉ, được Liên Xô viện trợ từ Thế chiến II.

Do đó có thể thấy ý kiến của đại tá Nguyễn Thành Trung, cựu phi công không quân Sài Gòn rằng nếu chiến dịch chiếm lại Hoàng Sa diễn ra thì khả năng chiến thắng là 100%, là không phải đại ngôn, mà đó là sự thật thực tế.

Ông Hoàng Đức Nhã, cựu Tổng trưởng Dân vận-Chiêu hồi, cựu Bí thư của "tổng thống" Nguyễn Văn Thiệu, một cựu quan chức chiến tranh chính trị, nói đỡ cho thượng cấp nhưng cũng vô tình xác nhận úp mở trên BBC Việt ngữ: "Sau phiên họp tại Bộ Tư lệnh hành quân ở Tiên Sa (Đà Nẵng) có sự tham dự của đại tướng Cao Văn Viên và các tự lệnh Quân đoàn I, Tư lệnh Hải Quân và Không quân vùng I chiến thuật, chính tổng thống Thiệu đã quyết định không dùng phi cơ F5 oanh tạc các tầu chiến và lính Trung Cộng ở Hoàng Sa 'vì quá nguy hiểm' cho các phi công trong hoàn cảnh thiếu nguyên liệu và không có yểm trợ của Hoa Kỳ."

Đương nhiên, đây là chỉ là một sự biện hộ, nói đỡ, tuy nhiên cũng nhờ nó, cộng với nhiều nguồn khác, đã hoàn toàn bác bỏ luận điệu xảo trá rằng "VNCH không chiếm lại Hoàng Sa do máy bay không thể bay được ra Hoàng Sa" của những kẻ ngu dốt hoặc cố tình nói láo tránh né, tự lừa gạt bản thân sau này.

Thực tế, cả chính quyền, quân đội, không quân, hải quân Sài Gòn đã im lặng ngồi nhìn Trung Quốc chiếm đóng lãnh thổ Hoàng Sa. Rồi "không hiểu tại sao" sau gần 1 tháng mới ra tuyên cáo về chủ quyền. Và trong bản tuyên cáo lại không ghi rõ ràng về "chủ quyền của Việt Nam" như tuyên bố ngày 20/1/1974 của chính phủ lâm thời miền Nam Việt Nam, để tạo ra cơ sở pháp lý quốc tế thuận lợi cho công tác tranh đấu, khẳng định chủ quyền của các chính thể người Việt tương lai, mà lại ghi là "chủ quyền của Việt Nam Cộng hòa", trong khi năm 1974 ai cũng biết "quốc gia", "nhà nước" này trước sau gì cũng sẽ không còn tồn tại.

Hoàng Đức Nhã là một trùm tâm lý chiến, vừa là Tổng trưởng Dân vận-Chiêu hồi, vừa kiêm Tham vụ Báo chí của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, trên BBC Việt ngữ còn nói rằng chính quyền Nguyễn Văn Thiệu "không đủ lực tái chiếm Hoàng Sa". Hơn nữa họ phải bảo toàn lực lượng hải quân và chống Quân đội Nhân dân Việt Nam. Và rằng chuyện tái chiếm Hoàng Sa tạm gác lại để "ưu tiên cho các mục tiêu trước mắt quan trọng hơn". Rằng sau khi các mục tiêu này được giải quyết thì họ "sẽ thu hồi Hoàng Sa".

Nếu ông không đủ lực thì có nghĩa là ông.... không đủ lực. Tại sao ông đang không đủ lực, rồi sau khi các mục tiêu trước mắt được giải quyết xong rồi ông bỗng dưng có đủ lực tái chiếm Hoàng Sa? Như vậy rõ ràng là ông mâu thuẫn và giả dối, ông đã có đủ lực ngay từ đầu, và ông chưa bao giờ thật sự có ý muốn thu hồi Hoàng Sa.

Cứ cho là ông muốn ưu tiên chống lại Việt Nam, chống lại quyền được độc lập và thống nhất của dân tộc Việt Nam, và nói rằng nó "quan trọng hơn" chuyện giành lại Hoàng Sa mà thực chất là cho Mỹ, một vật mà họ không còn muốn và đem biếu cho Trung Quốc, thì các lý do bao biện quanh co của ông cũng không trung thực, bởi vì lúc đó Quân đội Nhân dân Việt Nam và quân du kích Giải phóng chỉ tấn công các ông trên bộ, chiến trường ở đất liền, thời điểm đó các chiến dịch quân sự, hay thậm chí các hành động quân sự do bên nào phát động thì đều diễn ra trên mặt đất. Ông không dùng hải quân. Vậy ông cần bảo tồn lực lượng hải quân để làm gì?

Lý do mà Nguyễn Văn Thiệu và một số sĩ quan quân đội, quan chức Sài Gòn đưa ra để giải thích rằng sở dĩ hủy bỏ kế hoạch dùng không quân tái chiếm Hoàng Sa là vì "nguy hiểm lắm", "quá nguy hiểm", rồi sau đó đổ tội cho nhau, là một lý do vô lý bịp bợm đến ngạc nhiên, giống như một trò cười. Đi đánh trận mà sợ nguy hiểm?

Sao ông đi đến "đất thánh cộng sản" ở Hạ Lào ông không kêu "nguy hiểm"? Sao ông đưa quân sang Campuchia truy quét các căn cứ của cách mạng thì ông không hô "nguy hiểm"? Sao các chiến dịch trong cuộc chiến "chống nước cứu Mỹ" thì ông không nói "nguy hiểm"?

Bây giờ đưa không quân ra đánh một bọn không có bao nhiêu phòng không, không có bao nhiêu tàu chiến, thậm chí không có bao nhiêu quân, không có bao nhiêu sức chống trả, thì ông hô là "nguy hiểm"?

Rõ ràng khi nói vậy là khinh thường người nghe, theo cách nghĩ là bố cứ đưa lý do thế đấy chúng mày nghĩ sao thì mặc chúng mày. Tuy nhiên các lý do này cũng đã gián tiếp bác bỏ các luận điệu của bọn chống cộng tàn dư ngụy ngu dốt sau này là "máy bay VNCH không đủ sức bay ra HS tham chiến".

Cựu hạ sĩ quan điện tử Đỗ Văn Thọ, từng ở trên tuần dương hạm HQ-4 ,trả lời phỏng vấn BBC Việt ngữ qua điện thoại, cũng nói: “Tại sao phi cơ thì nhiều mà không đi, còn bao nhiêu chiến hạm nữa, như HQ-1 Trần Hưng Đạo.”

Trong cuộc phỏng vấn cho cuốn sách "Hải chiến Hoàng Sa" của "Tổng hội hải quân & Hàng hải Việt Nam Cộng hòa" với cựu thiếu tá không quân Hồ Kim Giàu, phi đoàn trưởng phi đoàn Nghênh cản 538. Phi đoàn Nghênh cản của không quân Sài Gòn được thành lập cuối năm 1973 để đối phó với không quân Việt Nam trường hợp quân đội Việt Nam tấn công các phi trường trong vùng tạm chiếm mà truyền thông và báo chí Sài Gòn gọi là "vùng 1 chiến thuật", thiếu tá Hồ Kim Giàu cho biết:

Ngày 19/1/1974, thiếu tá Giàu chuẩn bị phi đoàn bay ra Hoàng Sa oanh tạc các chiến hạm Trung Quốc. Phi đoàn nghênh cản gồm 4 chiến đấu cơ F5-A và 12 chiến đấu cơ F5-E tối tân và với bình xăng phụ có khả năng bay ra Hoàng Sa tác chiến trong vòng 15 phút và trở về. Các phi công đều được huấn luyện không chiến tại Hoa Kỳ. Sáng ngày 20/1 phi đoàn sẵn sàng lên đường. Nhưng đến trưa có lệnh từ phủ tổng thống hủy bỏ công tác.

Tại sao các nhân chứng trong chiến dịch tái chiếm Hoàng Sa lại trực tiếp hoặc gián tiếp cho biết không quân Sài Gòn đủ sức bay ra Hoàng Sa tham chiến và quay về?

Đó là vì không quân Sài Gòn có máy bay F-5 và A-37, là 2 trong những máy bay khá hiện đại vào thời đó. Họ có 254 máy bay cường kích Cessna A-37 Dragonfly chủ yếu là kiểu A-37B dùng máy đẩy J-85-GE-17A. So với các kiểu A37 khác thì kiểu này có thêm khả năng bay xa và tiếp dầu trên không. Cessna A-37 Dragonfly có tầm bay tối đa là 1.480 km.

Không quân Sài Gòn được Mỹ cấp cho 158 máy bay F-5A Freedom Fighter, 10 RF-5A, 8 F-5B huấn luyện, và bản mới nhất của dòng F5 là F-5E Tiger II. Máy bay đời đầu F-5A Freedom Fighter đã có tầm bay tối đa 2.232 km. Đời sau F-5E Tiger II có tầm bay tối đa 2.483 km. Ước lượng vùng xa nhất của chiến sự năm 1974 chỉ bằng nửa tầm của các máy bay F-5. Ngoài ra không quân Sài Gòn còn có Cessna T-37 Tweet (tầm bay 1.500km).

Khoảng cách từ căn cứ Chu Lai ra quần đảo Hoàng Sa và vùng chiến sự nằm trong tầm tác chiến của A-37 và F-5:










oOo

Thái độ đáng ngờ của các tàu HQ-04, HQ-05, cùng hàng loạt biến động chính trị giữa ba cường quốc Mỹ - Xô - Trung trong giai đoạn này, khiến ta đặt dấu chấm hỏi: Liệu ngụy quyền, ngụy quân Sài Gòn có thật sự quyết tâm giữ quần đảo Hoàng Sa?

Trong hoàn cảnh đó, cứ cho là hải quân thật sự thua trận, thì không quân của họ hoàn toàn đủ sức tiêu diệt sạch sẽ các tàu "đồ cổ" của Trung Quốc. Họ có đội máy bay cường kích lớn thứ ba thế giới, chỉ sau hai siêu cường Mỹ - Xô.

Trung Quốc thậm chí không có radar phòng không hay radar điều khiển hỏa lực, mà đơn thuần là các pháo phòng không 57mm, 37mm và 25mm nhắm bắn thủ công, với tốc độ chậm, y hệt tác chiến trong Thế chiến II. Không quân Sài Gòn thừa sức tiêu diệt các tàu này, nhưng một trận đánh nhỏ, dù chỉ để trả đũa, dù chỉ để "phục hồi danh dự", cũng không diễn ra. Đó là một chuyện rất lạ lùng. Lúc này cái khẩu hiệu "tổ quốc - danh dự - trách nhiệm" càng thấy mỉa mai hơn.

Tuy nhiên cũng không có gì quá khó hiểu khi chúng ta nhận thức rõ ai mới là người làm chủ ở Sài Gòn và những vùng tạm chiếm ở miền Nam Việt Nam lúc này. Họ muốn tặng vật gì cho ai, thì vật đó sẽ thuộc về người đó.

Qua lời kể của các ông Nguyễn Thành Trung, Hoàng Đức Nhã, Hồ Kim Giàu, Đỗ Văn Thọ.... các nhân chứng trong kế hoạch chiếm lại Hoàng Sa sau khi cuộc hải chiến xảy ra, cũng như các thông số cự li hoạt động của máy bay và cự li từ Đà Nẵng đến Hoàng Sa, cũng như chuyện kế hoạch bị hủy bỏ vào phút chót (nếu máy bay không thể bay ra HS tham chiến được thì ông mở chiến dịch làm gì để phải hủy bỏ vào phút chót) đã hoàn toàn quét sạch mọi nghi ngờ, đồn đoán và mọi luận điệu của bọn phản động sau này rằng "máy bay VNCH không thể bay ra HS tham chiến".

Do đó, tôi đề nghị các blogs và báo chí ở cả trong và ngoài nước gỡ bỏ hoặc ít nhất chỉnh sửa lại các luận điệu xuyên tạc và các thông tin sai sự thật đó. Đồng thời, sửa lại cách thể hiện sao cho phù hợp với lịch sử kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam, phù hợp với lịch sử cách mạng Việt Nam giai đoạn 1954-1975, phù hợp với lịch sử khu vực và thế giới.

Sự kiện gọi là "hải chiến Hoàng Sa" là một sự kiện nhỏ, xảy ra trong khoảng 15-20 phút. Nó là một sự kiện bên lề cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam, hay cuộc chiến tranh Việt Nam của Mỹ, một trong những cuộc chiến tranh lớn nhất, dài nhất lịch sử thế giới và khi đó cả thế giới dõi theo, nhìn vào. Dư luận thế giới và giới học thuật, trí thức quốc tế không quan tâm nhiều đến sự kiện xung đột quân sự này. Do đó không nên thổi phồng, phóng đại nó lên một cách không bình thường, không giống ai như vậy.

Kế hoạch ma, chiến dịch ma

Sau khi liên lạc với chính phủ Mỹ, Nguyễn Văn Thiệu đã đột ngột hủy bỏ chiến dịch phản công cướp lại tây Hoàng Sa và những nơi vừa bị Trung Quốc cướp đoạt. Trong khi đây là một chiến dịch quân sự đã lên kế hoạch tác chiến hoàn chỉnh và chỉ chờ lệnh xuất phát.

Đại tá Nguyễn Thành Trung, cựu phi công không quân Sài Gòn, nhân chứng trong chiến dịch tái chiến Hoàng Sa, cho biết: "Một kế hoạch phản công được chuẩn bị công phu với khả năng chiến thắng là 100%, nhưng rốt cuộc đã không thể diễn ra do Mỹ cảnh báo tổng thống Thiệu không được hành động."

Một số trang blog tàn dư ngụy, điển hình là trang của một băng nhóm làm loạn chống phá đất nước tự phong là "dân làm báo", được cho là một chi nhánh trá hình của tổ chức khủng bố Việt Tân, đã vội vã lấp liếm, ngụy biện chống đỡ vụng về, cãi lại ông Trung rằng ông chỉ là "trung úy" "nên không thể biết" việc Mỹ có cho phép ông Thiệu hành động hay không.

Tên Phạm Trần trong trang blog ấy quên rằng đại tá QĐNDVN Nguyễn Thành Trung không phải là một trung úy thật sự của ngụy quân, mà là một điệp viên được Trung ương cục miền Nam chỉ đạo thi tuyển vào không quân Sài Gòn. Ngay sau khi nhận được giấy báo trúng tuyển, ngày 31 tháng 5 năm 1969, điệp viên Nguyễn Thành Trung được kết nạp Đảng. Cũng chính ông ta là người đã nhận mệnh lệnh đánh bất ngờ gây khủng hoảng cho ngụy quân trong thời điểm quyết định của cuộc kháng chiến chống Mỹ, bằng cách xuất kích từ sân bay Biên Hòa, lái máy bay ném bom dinh tổng thống ngụy quyền. Sau đó ông tiếp tục dùng súng 20 ly bắn vào kho xăng Nhà Bè. Gây bất ngờ và hoảng loạn cho Mỹ-ngụy.

Như vậy ông ta đã hoạt động tình báo lâu năm trong lòng ngụy quyền và có những mối quan hệ bên trong ngụy quyền, và từ những thông tin nội bộ đó nên ông mới biết như vậy. Thông tin này của ông Trung phù hợp với thường lý, phù hợp với những gì xảy ra quanh đó, đặc biệt là diễn biến xảy ra ngay sau đó, tương thích với các thông tin khác, nguồn khác. Tóm lại, đó là một thông tin hợp lý và là một nguồn đáng tin cậy của một nhân chứng trong không quân Sài Gòn.

Tên Phạm Trần trong trang blog ấy vốn phán rất nhiều nhưng không hề chứng minh được gì, bản thân cũng không phải là nhân chứng hay một nhân vật gì ai biết ai hay, hắn chỉ là một vô danh tiểu tốt, không hề là một nguồn đáng tin, nhưng hắn lại phủ nhận thông tin của ông Nguyễn Thành Trung bằng cách ngụy biện rằng "Nguyễn Thành Trung không chứng minh được".

Đây là một ngụy biện điên rồ, mất trí và đáng xấu hổ của Phạm Trần nói riêng và đám "dân làm báo" nói chung. Chẳng có cái tòa án nào trên thế giới này mà khùng điên ba trợn đến mức đòi các nhân chứng đi chứng minh các lời khai của mình. Nên nhớ ông Nguyễn Thành Trung kể lại những gì ông biết với tư cách là một nhân chứng trong cuộc, trong không quân Sài Gòn, liên quan đến chiến dịch chiếm lại Hoàng Sa đáng lẽ đã phải diễn ra.

Và với cái tâm lý hèn hạ sợ hãi sự thật của quý vị thì tôi nghĩ dù cho ông Thiệu có ghi âm lời ông Mỹ và chuyển cho quý vị, thì quý vị cũng vẫn sẽ bảo đó là cộng sản "dàn dựng", hoặc tìm ra luận điệu gì đó để trốn tránh sự thật cho bằng được theo phong cách "cố đấm ăn xôi", "Chí Phèo cào mặt ăn vạ", tự lừa dối bản thân.

Quý vị muốn tự sướng thủ dâm tinh thần tôn thờ Mỹ hơn cả cha mẹ, ngụy biện chạy tội cho Mỹ-ngụy thì đó là chuyện nhạy cảm riêng tư của quý vị, đó là một căn bệnh thầm kín của quý vị. Nhưng quý vị làm ơn làm phước đừng đưa những căn bệnh đó lên trên blog như thế.

Thiếu Long

Phụ lục
Máy bay VNCH
Tài liệu Lịch sử Không quân Nhân dân Việt Nam viết rằng, tính tới tháng 4/1975, Không quân Quân đội Sài Gòn được xây dựng và trang bị hiện đại. Đây được xem là một trong những lực lượng mạnh ở khu vực Đông Nam Á.
Ở thời điểm cao nhất, lực lượng này có 1.193 máy bay các loại (trong đó có 188 máy bay cường kích A-37, 126 tiêm kích F-5A/E, 594 trực thăng vận tải UH-1 , 32 máy bay vận tải hạng trung C-130 cùng một số loại khác).
Ngay trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, Quân chủng Phòng không – Không quân đã cử đoàn cán bộ vào tiếp cận các căn cứ không quân Quân đội Sài Gòn nhằm thu giữ máy bay, vũ khí phục vụ công tác bảo vệ tổ quốc sau này.
Tính tới tháng 5/1975, bộ đội ta đã thu được khoảng 877 máy bay, trong số đó có 20% (khoảng 250 chiếc) trong tình trạng tốt, sử dụng được ngay gồm:
- Máy bay chiến đấu: 23 A-37, 41 F-5 và 5 AD-6
- Máy bay vận tải/chở khách: 28 C-7A, 36 C-119, 7 C-130, 21 C-47, 3 DC-3, 5 DC-4 và 2 DC-6.
- Máy bay trinh sát: biến thể trinh sát tiêm kích RF-5, RC-47, 15 U-17, 41 L-19
- Máy bay huấn luyện: 18 T-41, 5 U-6A, 1 PL-1
- Trực thăng: 50 UH-1 và 5 CH-47.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét