Tìm kiếm Blog này

Thứ Bảy, 21 tháng 3, 2015

AK: Vũ Hữu San & Trần Đỗ Cẩm - Hải Chiến Hoàng Sa


Hải Chiến Hoàng Sa 
Vũ Hữu San - Trần Đỗ Cẩm

I. PHẦN MỞ ĐẦU 

Vào đầu năm 1974, trong lúc tình hình chiến sự tại Việt Nam trở nên vô cùng sôi động với các trận đánh lớn diễn ra trên khắp bốn vùng chiến thuật, ngoài khơi Biển Đông đã xảy ra một trận hải chiến có tầm vóc lịch sử giữa Hải Quân VNCH và Hải Quân Trung Cộng. Trận hải chiến này có hậu quả vô cùng quan trọng, không những liên quan tới cục diện an ninh Việt Nam, vùng Đông Nam Á mà cả toàn cầu.

Về phương diện lịch sử, đây là lần đầu tiên kể từ thế kỷ thứ 13 khi Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn dưới thời nhà Trần đánh thắng quân Mông Cổ, Nam quân lại đụng độ với Bắc quân trên mặt biển. Về mặt hậu quả, sau khi lấn chiếm Hoàng Sa, Trung Cộng đã công khai gây hấn với các quốc gia láng giềng tại Đông Nam Á, thực hiện kế hoạch bành trướng tại Biển Đông nhằm khống chế và uy hiếp toàn vùng. Riêng đối với Việt Nam, việc Trung Cộng ngang nhiên xua quân xâm lấn quần đảo Hoàng Sa lại càng quan trọng, vì đây mới chỉ là bước đầu đưa tới hành động tiến xa hơn về phía Nam, thôn tính luôn quần đảo Trường Sa và làm bá chủ Biển Đông. Mất Hoàng Sa và Trường Sa, hai tiền đồn chiến lược che chở trước mặt, không những Việt Nam bị mất hết quyền lợi kinh tế tại Biển Đông mà còn bị hoàn toàn khống chế về mặt phòng thủ chiến lược.

Cũng như những lần đụng độ trước đây với kẻ thù truyền kiếp, tuy lực lượng xâm lăng phương Bắc mạnh hơn gấp nhiều lần, các chiến sĩ Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa đã noi gương Thánh Tổ Trần Hưng Đạo anh dũng chiến đấu, gây cho địch những tổn thất nặng nề. Qua dòng lịch sử của hàng ngàn năm Bắc thuộc, khi kẻ thù mạnh thì chúng ta kiên nhẫn lùi bước, lãnh thổ quốc gia tạm thời bị ngoại nhân xâm chiếm. Nhưng Việt Nam ta "hào kiệt thời nào cũng có", sớm muộn gì gia sản của tổ tiên cũng sẽ được khôi phục, và các quần đảo thân yêu Hoàng Sa cùng Trường Sa sẽ mãi mãi là phần lãnh thổ bất khả phân của tổ quốc Việt Nam. 


Tuy nhiên, trong thời đại giao thông tiến bộ vượt bực như ngày nay, mọi tranh chấp giữa các quốc gia không chỉ đơn thuần liên quan tới những phe liên hệ, mà không ít thì nhiều cũng ảnh hưởng tới nền an ninh của toàn vùng hay toàn cầu. Việc tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Cộng về quần đảo Hoàng Sa cũng không ngoại lệ. Do đó, để hiểu rõ tầm quan trọng của trận hải chiến Hoàng Sa, chúng ta cần biết rõ bối cảnh quân sự cũng như chính trị tại vùng Đông Nam Á cũng như trên thế giới lúc bấy giờ





II. BỐI CẢNH LỊCH SỬ 

Vào thời điểm năm 1972, qua sự trung gian của Ngoại Trưởng Kissinger, Hoa Kỳ đã dùng chính sách ngoại giao "bóng bàn" để ve vãn Trung Cộng. Thế giới lúc đó gồm các cường quốc Hoa Kỳ, Nga Sô và Trung Cộng được chia ba theo thế "chân vạc" như thời Tam Quốc. Phe nào chiếm được đa số sẽ nắm phần lợi thế.

Đối với Hoa Kỳ, tuy cả Nga Sô lẫn Trung Cộng đều là các quốc gia Cộng Sản, nhưng Nga Sô vẫn luôn luôn là kẻ thù chính cần phải loại bỏ trước. Vì vậy, nếu thuyết phục được Trung Cộng trở thành đồng minh, phe Hoa Kỳ sẽ có hai trong ba chân vạc, Nga Sô bị cô lập ở thế "lưỡng đầu thọ địch" không sớm thì muộn cũng sẽ bị sụp đổ. Lúc đó, Hoa Kỳ sẽ tay đôi "một chọi một" với Trung Cộng và có lẽ sẽ không cần dùng sức tới mạnh quân sự mà chỉ cần mở mặt trận kinh tế cũng đã đủ chi phối được một nước Trung Hoa tuy rộng lớn, đông dân nhưng nghèo đói. Khi Trung Hoa đã nằm trong quĩ đạo kinh tế thị trường do Hoa Kỳ chủ động, ngoài việc Hoa Kỳ sẽ mặc tình thao túng mà còn mở cửa được một thị trường tiêu thụ khổng lồ trên một tỷ dân khiến nền kinh tế thêm thịnh vượng.

Đề cập tới tầm quan trọng của sự bành trướng thị trường này, một chuyên gia trong giới kinh tế, tài chánh Hoa Kỳ thường ao ước: "Chỉ cần mỗi người dân Trung Cộng uống một lon Coca Cola và ăn một cái Hamburger mỗi năm, nền kinh tế của Hoa Kỳ sẽ phát triển vô cùng mạnh mẽ".

Về phía Trung Cộng, tuy biết rõ âm mưu thôn tính bằng kinh tế của Hoa Kỳ, nhưng cũng không thể làm gì hơn. Sau hơn một nửa thế kỷ cùng người anh em Nga Sô theo chế độ Xã Nghĩa Mác Lê, Trung Cộng đã không tìm được thiên đường Cộng Sản mà chỉ thấy địa ngục đói khổ, dân chúng ngày càng ta thán nên cuối cùng cũng phải theo tiếng gọi của bao tử. Thà theo kẻ thù "Tư Bản" mà được ăn no còn hơn đọc thánh kinh của họ Mao với chiếc bụng rỗng.

Vì vậy, cuộc viếng thăm thủ đô Bắc Kinh của Tổng Thống Nixon đã đánh dấu sự thành công của chính sách "ngoại giao bóng bàn". Ngoài những quyền lợi về kinh tế và chính trị, kể từ nay Hoa Kỳ cũng không còn phải bận tâm về "lò thuốc súng Đông Nam Á" vì đã có đồng minh mới Trung Cộng ghé vai gánh vác. Được Hoa Kỳ chính thức bàn giao, Trung Cộng cũng thấy đây là cơ hội bằng vàng để thực hiện giấc mộng bá chủ vùng Đông Nam Á của mình. Hành động đầu tiên trong tham vọng này là xua quân xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Về phía Hoa Kỳ cũng đẩy mạnh chính sách bỏ rơi vùng Đông Dương bằng cách bán đứng miền Nam Việt Nam chỉ vài năm sau đó.

Do đó, khi trận hải chiến Hoàng Sa xảy ra vào năm 1974, đồng minh Hoa Kỳ chẳng những đã không trợ giúp Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) về phương diện quân sự cũng như ngoại giao, mà trước đó, còn dọa dẫm và khuyến cáo Hải Quân VNCH đừng tham chiến. Chính các sĩ quan Hải Quân Hoa Kỳ cũng không giám nghĩ rằng Hải Quân Việt Nam sẽ ra khơi vì lực lượng đôi bên quá chênh lệch. Những "cố vấn" kiêm chuyên gia về Hải Quân này dự đoán rằng các chiến hạm Việt Nam sẽ lặng lẽ rút lui bỏ mặc quần đảo Hoàng Sa thân yêu êm thấm rơi vào tay giặc. Những ước đoán trên căn cứ vào thái độ của Hoa Kỳ lúc đó, cho biết Hải Quân của họ dù đang làm bá chủ Biển Đông, cũng đứng ngoài vòng tranh chấp.

Ngoài ra, Hoa Kỳ cũng không đồng ý để Việt-Nam xử dụng các khinh tốc đĩnh (PT boat) tại Đà Nẵng. Các chiến-đĩnh này do thủy thủ đoàn Việt Nam điều khiển, nhưng Hoa Kỳ kiểm soát. Ngay tới khi trận hải chiến đã kết thúc, lực lượng HQ Hoa Kỳ vẫn còn từ chối tiếp cứu những thủy thủ Việt Nam lâm nạn, một điều trái ngược hẳn với qui luật của người đi biển.

Cho tới nay, chúng tôi đã nhiều lần viết thư yêu cầu phòng Quân Sử của Hải Quân Hoa Kỳ cung cấp những dữ kiện đã được giải mật về trận Hải Chiến Hoàng Sa, nhưng lúc nào họ cũng trả lời "không có bất cứ một tài liệu nào liên quan trong hồ sơ lưu trữ". Đây là một điều rất khó tin vì lúc đó, Hải Đoàn 77 (Task Force 77) của HQ Hoa Kỳ gồm nhiều mẫu hạm và các chiến chạm yểm trợ tổng cộng gần 20 tàu chiến đang hoạt động tại vị trí "Yankee" (Yankee Station) trong Vịnh Bắc Việt, cách Hoàng Sa về phía Đông Bắc không xa. Thật sự Hoa Kỳ có hoàn toàn "không biết" hay đứng ngoài vụ tranh chấp hay không? Hoa Kỳ đã "mũ ni che tai" vì lý do gì? Mời độc giả tuần tự theo dõi các diễn biến của trận hải chiến tại Hoàng Sa, hy vọng sẽ tìm được câu trả lời.

Ngoài sự dự đoán của Hoa Kỳ cũng như của Trung Cộng, Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa dù đơn độc và cô thế "lưỡng đầu thọ địch" cũng đã dùng hết sức tham chiến. Các chiến sĩ áo trắng đã can đảm nổ súng vào quân xâm lăng và chiến đấu đến tận cùng khả năng của mình. Sau trận hải chiến, dư luận báo chí quốc tế đã bày tỏ nhiều thiện cảm qua những bài bình luận rất thuận lợi cho Việt Nam trong khi lên án quân xâm lược Trung Cộng.

Trước khi đi sâu vào chi tiết trận hải chiến, tưởng cũng cần nêu lên một vài điểm liên quan đến việc sưu tầm tài liệu. Nói chung, đây là việc rất khó khăn vì đa số đã bị thất lạc hoặc vùi chôn trong quá khứ.

Thứ nhất, trận hải chiến xảy ra cách đây đã lâu nên những chi tiết ngay cả đối với những người đã trực tiếp tham dự không ít thì nhiều cũng bị mai một với thời gian. Vả lại, mỗi nhân chứng tùy theo vị trí và hoàn cảnh sẽ có tầm nhìn và nhận xét khác nhau, do đó việc tường thuật trung thực mọi chi tiết như một máy quay phim thiết tưởng không thể nào thực hiện được. Thứ hai, tuy đã có một số bài viết về Hoàng Sa nhưng những tài liệu này phần lớn dựa vào ký ức nên thiếu chính xác và chưa đủ để nói lên tầm vóc quan trọng của biến cố lịch sử này. Thứ ba, vì miền Nam đã bị Cộng Sản xâm chiến nên những tài liệu chính thức như các phúc trình hậu hành quân của các chiến hạm tham chiến cũng như của Bộ Tư Lệnh Hải Quân (BTL/HQ) rất khó sao lục lại. Theo HQ Trung Tá Vũ Hữu San, báo Le Courier du Vietnam cho biết ngày nay còn có một bản Tổng Kết Hải Chiến Hoàng Sa của BTL/HQ trình BTTM/QLVNCH lưu giữ tại Hà Nội.

Vì những lý do trên, tuy khả năng và hoàn cảnh hạn hẹp, chúng tôi cũng cố gắng thuật lại trận hải chiến tại Hoàng Sa, càng gần với sự thật càng tốt, căn cứ vào những tài liệu thâu thập được phối kiểm với lời kể lại của các nhân chứng. Tác giả may mắn và hãnh diện được là bạn cùng khóa 11 Sĩ Quan Hải Quân (SQHQ) Nha Trang với hai trong số bốn vị Hạm Trưởng tham chiến, đó là HQ Trung Tá Vũ Hữu San, Hạm Trưởng Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư HQ-4 và HQ Trung Tá Phạm Trọng Quỳnh, Hạm Trưởng Tuần Dương Hạm Trần Bình Trọng HQ-5. Hai Hạm Trưởng còn lại là HQ Trung Tá Lê Văn Thự (Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt HQ-16) thuộc khóa 10 SQHQ Nha Trang và cố HQ Trung Tá Ngụy Văn Thà thuộc khoá 12 SQHQ Nha Trang là các khóa sinh sát trên và dưới trong lúc cùng học tại Nha Trang nên cũng có dịp quen biết ít nhiều.

Ngoài ra, chúng tôi cũng có dịp tiếp chuyện nhiều lần với HQ Đại Tá Hà Văn Ngạc là Sĩ Quan Chỉ Huy Chiến Thuật trong trận hải chiến tại Hoàng Sa. Chúng tôi cũng cám ơn anh bạn trẻ Trương Văn Quang hiện cư ngụ tại Úc Châu đã trợ giúp sưu tầm nhiều hình ảnh và chi tiết hiếm có. Nhưng dù sao, bài viết này chắc chắn sẽ còn rất nhiều thiếu sót và kém chính xác, tác giả mong mỏi sẽ được những người biết chuyện thẳng thắn phê bình xây dựng và bổ túc để phần tài liệu về trận hải chiến Hoàng Sa được thêm đầy đủ. Chúng tôi hoàn toàn ý thức được rằng dù bao nhiêu báo chí sách vở cũng không sao tường thuật đầy đủ và nói hết được tầm quan trọng của biến cố lịch sử Hoàng Sa. Vì vậy bài viết này chỉ mang mục đích đóng góp nhỏ nhoi vào kho tài liệu hải sử, với kỳ vọng những người khác hoặc thế hệ mai sau sẽ thực hiện một pho Hải Sử đầy đủ xứng đáng với tinh thần hy sinh dũng cảm của các chiến sĩ Hoàng Sa.

Để dễ dàng theo dõi, chúng tôi sẽ giới thiệu sơ lược về vị trí và đặc điểm của quần đảo Hoàng Sa, sau đó trình bày chi tiết về trận hải chiến và cuối cùng sẽ nêu lên một số nhận xét và bình luận.





III. KHÁI LƯỢC VỀ QUẦN ĐẢO HOÀNG SA

1. BIỂN ĐÔNG, XÁC ĐỊNH MỘT DANH TỪ

Trên các bản đồ cũng như hải đồ quốc tế, vùng biển cực Tây của Thái Bình Dương nằm về phía Nam lục địa Trung Hoa thường được gọi là South China Sea. Theo thông lệ, các nhà hàng hải thời xưa thường lấy tên khu vực đất liền lân cận để đặt tên vùng biển tiếp giáp. Vì vậy, trên bản đồ, chúng ta thấy những tên biển quen thuộc như: Biển Ấn Độ hay Ấn Độ Dương (Indian Ocean), Biển Nhật Bản (Sea of Japan), Vịnh Bắc Việt (Gulf of Tonkin), Vịnh Thái Lan (Gulf of Thailand) hay Vịnh Mễ Tây Cơ (Gulf of Mexico) v.v...

Do đó, South China Sea chỉ đơn thuần được dùng để chỉ vùng biển nằm về phía Nam lục địa Trung Hoa. Tuy có chữ "China" trong đó nhưng danh từ này không bao hàm ý nghĩa "của" hay "thuộc về" Trung Hoa, cũng như Vịnh Mễ Tây Cơ không phải là tài sản riêng của Mexico. Sở dĩ cần xác định như trên để tránh những hiểu lầm, vì rất có thể khi thấy chữ "China", một số người có thể vội vàng ngộ nhận là "của Trung Hoa".

Riêng đối với người Việt Nam, tuy South China sea ở phía Nam Trung Hoa, nhưng lại nằm về hướng Đông của Việt Nam, nên thiết tưởng "Biển Đông" là tên chính xác để mệnh danh vùng biển thân yêu này. Hơn nữa, từ ngàn xưa, tổ tiên ta đã có danh từ Biển Đông. Bằng chứng là những câu ca dao, tục ngữ quen thuộc như:

"Dã tràng xe cát Biển Đông,
Nhọc mình mà chẳng nên công cán gì"

Hoặc "Thuận vợ thuận chồng, tát Biển Đông cũng cạn". Trong bài "Văn Tế Cá Sấu" bằng tiếng Nôm của đại học sĩ Nguyễn Thuyên cũng có câu như sau:

"Ngạc ngư kia hỡi mày có hay,
Biển Đông rộng rãi là nơi mày,
Phú Lương đây thuộc nơi Thánh vực,
Lạc lối đâu mà lại tới đây?"

Nhận xét như trên, chúng tôi mạnh dạn đề nghị các sách báo của người Việt nên dùng danh xưng Biển Đông để thay thế cho từ ngữ Nam Hải hay South China Sea. Đây không những là một việc làm "danh chính ngôn thuận", mà còn nhắc nhở chúng ta luôn luôn nhớ đến vùng biển thân thiết nằm về phía Đông nước Việt đã gắn liền với vận mạng dân tộc qua những thăng trầm của lịch sử.

2. VỊ TRÍ

Trên bản đồ hàng hải, quần đảo Hoàng Sa là một chuỗi gồm trên 100 đảo nhỏ nằm ngoài khơi Việt Nam, giữa kinh tuyến 111 độ - 113 độ Đông và vĩ tuyến 15 độ 45 - 17 độ 05 Bắc. Nói khác đi, quần đảo này cách bờ biển Đà Nẵng chừng 170 hải lý (khoảng 300 cây số) về hướng Đông và có khoảng cách đều từ 400 hải lý đến 500 hải lý (720 cây số đến 900 cây số) đối với các hải cảng Sài Gòn, Hải Phòng, Hương Cảng và Manila. Theo truyền thuyết, toán thám sát dưới triều vua Gia Long báo cáo quần đảo này có nhiều bãi cát vàng, vì vậy nên được đặt tên là Hoàng Sa.

3. ĐỊA THẾ

Trên các hải đồ quốc tế, quần đảo Hoàng Sa được gọi là Paracel Islands hay Paracels. Có người cho rằng tên Paracel bắt nguồn từ chữ Bồ Đào Nha "Paracel" có nghĩa là "đá ngầm". Giả thuyết này nghe cũng khá hợp lý vì mấy thế kỷ trước đây, dân Bồ Đào Nha (Portugal) và Tây Ban Nha (Spain) có rất nhiều hải thuyền nổi tiếng chu du thám hiểm vòng quanh thế giới. Đi tới đâu, họ dùng ngôn ngữ của nước mình để đặt tên cho những vùng biển hay đất lạ chưa được ghi chép trên bản đồ. Hơn nữa, các đảo trong vùng Hoàng Sa thường rất thấp, chỉ cao chừng vài ba thước trên mặt biển nên trông như những bãi đá ngầm khi thủy triều lên.

Giả thuyết thứ hai cho rằng "Paracel" là tên một thương thuyền thuộc công ty Đông Ấn của người Anh bị mắc cạn và chìm tại vùng Hoàng Sa vào khoảng thế kỷ thứ 16. Chúng tôi thiết nghĩ giả thuyết thứ hai này có vẻ hữu lý hơn, vì trong quần đảo Hoàng Sa còn có nhóm đảo Amphitrite lấy tên của một tàu Pháp gặp nạn tại Hoàng Sa khi vượt biển buôn bán với Trung Hoa vào thế kỷ thứ 17.

Theo các bản đồ cổ của Việt Nam, quần đảo Hoàng Sa mang tên bãi Cát Vàng hay Cồn Vàng vì cát tại đây thường có màu vàng, nhất là tại đảo Quang Hòa. Người Trung Hoa gọi vùng Hoàng Sa là Hsisha hay Xisha Quandao tức là Tây Sa quần đảo.

Quần đảo Hoàng Sa gồm có rất nhiều đảo lớn, đảo nhỏ, cồn cát, bãi cát, đá ngầm v.v... nên rất khó xác định tổng cộng có bao nhiêu "đơn vị". Đảo cao nhất là Rocky Island nhô cao khỏi mặt nước chừng 20 thước. Sách cổ Việt Nam cho biết có cả thảy chừng 130 đảo, cồn, bãi v.v... Tuy nhiên, trên các hải đồ quốc tế chúng ta thấy chỉ ghi nhận vài ba chục đảo lớn. Tưởng cũng cần nói thêm, ngoài các đảo, cồn và đá nổi cao khỏi mặt nước, vùng Hoàng Sa còn có hai bãi ngầm (Bank hay Shoal) rất lớn luôn luôn chìm dưới mực nước biển, đó là Macclesfield và Scarborough Shoal nằm về hướng Đông. Những bãi ngầm hay vùng nước cạn giữa biển này rất nguy hiểm cho các tàu bè qua lại vì khi thời tiết tốt, mặt biển trông rất phẳng lặng bình yên không có dấu hiệu de dọa nào, chỉ khi trời nổi sóng gió mới thấy những lượng sóng bạc đầu trên các vùng bãi hay đá ngầm.

Nếu chỉ kể riêng những đảo (đá, đất, bãi cát, cồn ... cao hơn mặt biển), quần đảo Hoàng Sa được các nhà hàng hải chia thành hai nhóm chính: đó là nhóm Trăng Khuyết và nhóm An Vĩnh.

A. Nhóm Trăng Khuyết (Crescent Group - xem bản đồ quần đảo Hoàng Sa)

Những đảo thuộc nhóm này kết hợp lại thành một hình cánh cung hay lưỡi liềm nên được đặt tên là Trăng Khuyết hay Nguyệt Thiềm, tên quốc tế là Crescent hay Croissant. Đây là nhóm đảo quan trọng nhất nằm về phía Tây của quần đảo Hoàng Sa, tức là gần với đất liền Việt Nam nhất. Nhóm này gồm 7 hòn đảo chính và một số bãi ngầm.
1. Đảo Hoàng Sa (Pattle Island)
Đây là hòn đảo chính của quần đảo, nhưng lại không phải là đảo lớn nhất. Đảo này hình bầu dục, chiều dài khoảng 950 thước, rộng khoảng 650 thước. Các cơ sở quân sự, đài khí tượng, hải đăng, cầu tàu ... được đặt trên hòn đảo này. Những cơ sở nói trên đa số được thiết lập từ thời Pháp, đều thuộc quyền sở hữu của VNCH. Ngoài ra còn có các kiến trúc khác như Miếu Bà, Nhà Thờ, bia chủ quyền Việt Nam và đường xe goòng dẫn ra cầu tàu để chuyển vận phân bón. Vì là đảo chính có nhiều cơ sở hành chánh nên được dùng làm tên chung cho cả quần đảo.

Đảo Hoàng Sa đủ lớn để thiết lập một phi đạo ngắn tầm. Vào đầu năm 1974, VNCH dự trù xây cất một phi trường tại đây nhưng khi toán công binh thám sát được tàu Hải Quân chở ra tới nơi thì đảo đang bị Trung Cộng lấn chiếm. Dưới thời VNCH, có một trung đội Địa Phương Quân thuộc chi khu Hòa Vang thuộc tiểu khu Quảng Nam đồn trú thường trực. 
2. Đảo Cam Tuyền (hay Hữu Nhật - Robert Island)
Đảo mang tên một xuất đội dưới triều nhà Nguyễn tên thật là Nguyễn Hữu Nhật. Diện tích đảo này chừng 0.32 cây số vuông, nằm cách đảo Hoàng Sa chừng 3 hải lý về hướng Nam. Đảo có một vòng san hô bao chung quanh, có chỗ ăn liền tới bờ đảo. 
3. Đảo Duy Mộng (Drummond Island)
Hình bầu dục, cao chừng 4 thước trên mặt biển, diện tích chừng 0.41 cây số vuông. Nước tương đối sâu, tàu lớn có thể vào sát bờ chỉ cách vài ba trăm thước. Trước trận hải chiến tại Hoàng Sa vào tháng 1 năm 1974, đa số các chiến hạm Trung Cộng tập trung quanh đảo này. 
4. Đảo Quang Ảnh (hay Vĩnh Lạc - Money Island)
Quang Ảnh là tên một vị đội trưởng dưới triều Nguyễn tên thật là Phạm Quang Ảnh. Vào thời vua Gia Long, vị đội trưởng này thường đem hải thuyền ra Hoàng Sa để thu lượm hải vật. Đảo cao chừng 6 thước, diện tích gần nửa cây số vuông. Chung quanh đảo có nhiều đá ngầm và san hô rất nguy hiểm cho tàu bè. 
5. Đảo Quang Hòa (Duncan Island)
Là hòn đảo lớn nhất trong nhóm Trăng Khuyết với diện tích chừng nửa cây số vuông. Quanh đảo là bãi cát mầu vàng, có lẽ vì vậy mà cả quần đảo mang tên Hoàng Sa, bãi Cát Vàng hay Cồn Vàng. Vì có nhiều đảo nhỏ nối liền với nhau bằng giải cát chìm ngầm dưới biển khi nước lớn nên có một số hải đồ chia đảo này thành hai đảo Quang Hòa Đông và Quang Hòa Tây. Chung quanh đảo có vòng san hô bao bọc.

Trong trận hải chiến giữa HQ/VNCH và Trung Cộng, chiến hạm đôi bên đã đụng độ tại mặt Tây của đảo này, chỉ cách mấy hải lý. 
6. Đảo Bạch Quỷ (Passu Island)
Đảo cấu tạo bằng san hô, rất thấp, chỉ nhú lên khỏi mặt nước khi thủy triều xuống. Đảo rất trơ trọi khiến người khó có thể sinh sống. 
7. Đảo Tri Tôn (Triton Island)
Gần với đất liền Việt Nam nhất. Đảo trơ trọi toàn đá và san hô chết. 
8. Các Bãi Ngầm
Ngoài các đảo chính nêu trên trong vùng biển thuộc nhóm Trăng Khuyết còn có một số bãi ngầm đáng kể và rất nguy hiểm cho tàu bè qua lại sau đây:
Bãi Antelope Reef: gồm toàn san hô ngầm, nằm về phía Nam đảo Hữu Nhật và phía Đông đảo Quang Ảnh.
Bãi Vuladdore: nằm về hướng Đông Nam của nhóm Trăng Khuyết, các chừng 20 hải lý.
Bãi Discovery Reef: là bãi ngầm lớn nhất. Đây là một vòng rộng toàn san hô, chiều dài chừng 15 hải lý và rng chừng 5 hải lý.

B. Nhóm An Vĩnh (Amphitrite Group)

Nằm về hướng Đông Bắc quần đảo Hoàng Sa. An Vĩnh nguyên là tên của một xã thuộc tỉnh Quảng Ngãi thời trước. Sách Đại Nam Thực Lục Tiên Biên chép về xã này như sau: "Ngoài biển xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi có hơn 100 cồn cát kéo dài tới không biết mấy ngàn dậm, tục gọi là Vạn Lý Hoàng Sa Châu ... Hồi quốc sơ đầu triều Nguyễn có đặt đội Hoàng Sa gồm 70 người lấy dân xã An Vĩnh sung vào, hàng năm cứ đến tháng ba cưỡi thuyền ra đảo, ba đêm thì tới nơi ... "

Nhóm An Vĩnh còn có tên là Amphitrite hay Tuyên Đức, gồm nhiều đảo tương đối lớn và cao. Sau đây là một số đảo chính:

- Đảo Phú Lâm.
- Đảo Cây, còn gọi là đảo Cù Mộc.
- Đảo Lincoln.
- Đảo Trung.
- Đảo Bắc.
- Đảo Nam.
- Đảo Tây.
- Đảo Hòn Đá.

Hải đảo quan trọng nhất trong nhóm An Vĩnh là đảo Phú Lâm, còn gọi là Woody Island nằm cạnh đảo Hòn Đá nhưng diện tích lớn hơn nhiều.

Trước đệ nhị thế chiến, ngưới Pháp tại Đông Dương đã khai thác những đảo thuộc nhóm An Vĩnh. Họ cũng thiết lập tại đây một đài khí tượng giống như trên đảo Hoàng Sa. Sau thế chiến thứ hai, người Pháp tại Đông Dương phái chiến hạm Savorgnan de Brazza đến chiếm lại các đảo tại vùng Hoàng Sa từ tay người Nhật vào tháng 6 năm 1946. Nhưng sau đó vì chiến tranh Việt Pháp bùng nổ, Pháp phải rút quân về đất liền. Lợi dụng cơ hội Hoàng Sa bị bỏ trống, Trung Hoa lấy cớ giải giới quân Nhật đã lén đổ quân lên đảo Phú Lâm rồi chiếm đóng đảo này. Ngoài ra, họ cũng tiến xa hơn về phía Nam, chiếm luôn đảo Thái Bình (Itu Aba) thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam.

Vào ngày 13 tháng 1 năm 1947, người Pháp tại Đông Dương chính thức phản kháng hành động chiếm đóng các hải đảo bất hợp pháp của Trung Hoa và phái chiến hạm Le Tonkinois ra Hoàng Sa. Thấy đảo Phú Lâm đã bị chiếm đóng và phòng thủ kỹ lưỡng, chiến hạm này quay về đảo Hoàng Sa (Pattle Island) để đổ 10 quân nhân Pháp và 17 quân nhân Việt Nam lên giữ đảo. Khi Trung Hoa Dân Quốc phải bỏ Hoa Lục chạy sang Đài Loan, họ cũng rút quân ở đảo Phú Lâm và Thái Bình về. Mãi tới 7 năm sau khi làm chủ được lục dịa, Trung Cộng mới cho quân chiếm đóng Đảo Phú Lâm vào đêm 20 rạng ngày 21 tháng 2 năm 1956.

Trong nhóm An Vĩnh, ngoài Phú Lâm còn có một hòn đảo quan trọng khác, đó là đảo Lincoln, nằm về phía Đông của nhóm. Đây là đảo lớn nhất trong quần đảo Hoàng Sa với diện tích chừng 1.6 cây số vuông hay tương đương 400 acres, bề cao chừng 3 - 4 thước.

Hiện nay, dự đoán có chừng 4,000 quân Trung Cộng chiếm đóng trên các đảo tại vùng Hoàng Sa.

4. CHỦ QUYỀN VIỆT NAM TẠI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA

Vào thế kỷ thứ 18, bộ sách "Phủ Biên Tạp Lục" của ông Lê Quí Đôn đã đề cập tới Hoàng Sa và Trường Sa. Cuốn sách này cũng kể việc người Việt Nam đã khai thác hai quần đảo này ngay từ thời Lê mạt. Các tài liệu khác nói về chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa là bộ "Hoàng Việt Địa Dư Chí" được ấn hành vào năm Minh Mạng thứ 16 tức là năm 1834 và cuốn "Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí" của Phan Huy Chú (1782 - 1840).

Hơn nữa, bộ "Đại Nam Nhất Thống Chí" trong cuốn nói về tỉnh Quảng Ngãi có kể việc Chúa Nguyễn cho thành lập đội Hoàng Sa gồm 70 người cứ mỗi năm vào tháng 3 thì ra đảo thu lượm hải vật rồi trở về vào tháng 8. Vào năm Minh Mạng thứ 16, nhà vua cũng sai quan quân dùng thuyền chở gạch đá ra dựng một ngôi chùa và bia chủ quyền tại đảo Hoàng Sa có khắc hàng chữ nôm "Minh Mạng năm thứ 16".

Ngoài các sử gia bản xứ, một số các tác giả người Pháp cũng nói tới chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa. Vào năm 1836 Đức giám mục Taberd đã viết trong cuốn sách "Địa dư, lịch sử và mô tả mọi dân tộc cùng với tôn giáo và phong tục của họ" (Universe, histoire et description de tous les peuples, de leurs religion et coutumes) như sau:

"Tôi không kể dài dòng về những đảo thuộc Nam Kỳ, nhưng chỉ nhận xét rằng từ 34 năm nay, người Nam Kỳ đã chiếm cứ nhóm quần đảo Paracels mà người An Nam gọi là Cát Vàng hay Hoàng Sa, thực là những hòn đảo nhỏ bí hiểm, gồm những mỏm đá xen lẫn với các bãi cát mà những người đi biển đều kinh hãi. Tôi không rõ họ có thiết lập cơ sở gì ở đó không, nhưng chắc chắn rằng Hoàng Đế Gia Long nhất định muốn mở rộng lãnh thổ của Hoàng Triều bằng cách chiếm quần đảo này, và vào năm 1816, ngài đã long trọng trương lá cờ tại đây".

Trong tác phẩm "Hồi ký về Đông Dương", ông Jean Baptiste Chaigneau cũng ghi rằng vua Gia Long đã chính thức thu nhận quần đảo Hoàng Sa vào năm 1816.

Khi người Pháp đặt nền bảo hộ trên toàn cõi Đông Dương, họ cũng tiếp tục nhiệm vụ bảo vệ Hoàng Sa. Vào các năm 1895 và 1896, có hai chiếc thương thuyền tên Bellona và Iruezi Maru chở đồng cho người Anh bị đắm tại nhóm đảo Tuyên Đức và bị người Trung Hoa đến đánh cướp. Đại diện người Anh tại Bắc Kinh đòi nhà Thanh phải bồi thường vì có một số đồng được đem về bán tại đảo Hải Nam. Nhưng chính quyền nhà Thanh không chịu bồi thường, viện cớ quần đảo Hoàng Sa không thuộc chủ quyền của Trung Hoa.

Các quốc gia trong vùng Đông Nam Á cũng mặc nhiên công nhận chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa. Vào đầu thế kỷ 20, một công ty Nhật tên Motsli Bussan Kaisha đã đệ đơn xin chính quyền Pháp tại Đông Dương cấp quyền đặc nhượng khai thác phosphate tại đây. Năm 1925, tàu Lanessan chở phái đoàn nghiên cứu của Hải Học Viện Nha Trang ra thám sát quần đảo Hoàng Sa. Phái đoàn này xác nhận Hoàng Sa là một phần của lãnh thổ Việt Nam vì dính liền với thềm lục địa Việt Nam.

Tại hội nghị San Francisco vào ngày 7 tháng 9 năm 1951, Thủ Tướng Trần Văn Hữu, trưởng phái đoàn Việt Nam cũng đã lên tiếng xác nhận chủ quyền Việt Nam tại các hải đảo thuộc Biển Đông. Ông tuyên bố trước hội nghị: "Chúng ta cần phải lợi dụng mọi cơ hội để dập tắt mầm mống chiến tranh, vì vậy chúng tôi xác nhận chủ quyền của Việt Nam trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ trước đến nay vẫn luôn luôn là những thành phần của lãnh thổ Việt Nam". Trong tổng số 51 quốc gia tham dự, không một quốc gia nào - kể cả Trung Hoa - lên tiếng phản đối nên lời tuyên bố này đã được ghi vào biên bản của hội nghị.

Dưới thời Pháp thuộc, Việt Nam đã thiết lập những cơ sờ hành chánh tại Hoàng Sa qua nghị định số 156-SC ngày 15-6-1932 của Toàn Quyền Đông Dương. Trong đạo dụ số 10 ký ngày 30-3-1938, Hoàng Đế Bảo Đại sát nhập quần đảo Hoàng Sa vào tỉnh Thừa Thiên.

Ngày 5-5-1938, Toàn Quyền Đông Dương thiết lập hai đơn vị hành chánh tại quần đảo Hoàng Sa. Đó là đơn vị Trăng Khuyết và phụ cận (délégation du Croissant et dépendences) và đơn vị Tuyên Đức và phụ cận (délégation de l'Amphitrite et dépendences).

Ngày 13-7-1961 dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa, Tổng Thống Ngô Đình Diệm ban hành sắc lệnh số 175-NV đặt quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam thay vì tỉnh Thừa Thiên và đặt tên là xã Định Hải thuộc quận Hòa Vang.

Dưới thời Đệ Nhị Cộng Hòa, nghị định số 709-BNV-HC ngày 21-10-1969 của Thủ Tướng Chính Phủ đã sát nhập xã Định Hải vào xã Hòa Long cũng thuộc quận Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam

IV. NHỮNG DIỄN BIẾN TRƯỚC TRẬN HẢI CHIẾN 

Vụ tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông đột ngột trở nên sôi động vào ngày 11-1-1974 khi Trung Cộng ngang nhiên tuyên bố các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đang nằm trong tay Việt Nam Cộng Hòa là một phần lãnh thổ của họ. Để làm hậu thuẫn cho những lời tuyên bố vô căn cứ,Trung Cộng (TC) phái nhiều tàu đánh cá võ trang xâm nhập hải phận Hoàng Sa và đổ quân giả dạng ngư phủ lên các đảo không có lực lượng VNCH chiếm đóng.

Ngay ngày hôm sau 12-1-74, Ngoại Trưởng Vương Văn Bắc của VNCH đã cực lực bác bỏ luận điệu ngang ngược và lên án hành động xâm lăng gây hấn của Trung Cộng, đồng thời Bộ Tư Lệnh HQ/VNCH cũng chuẩn bị tăng cường chiến hạm tuần tiễu tại vùng biển Hoàng Sa. Lúc đó, chỉ có một trung đội Địa Phương Quân thuộc chi khu Hòa Vang, tiểu khu Quảng Nam gồm 24 người đóng tại đảo Hoàng Sa cùng với 4 nhân viên đài khí tượng. Các đảo khác trong nhóm Nguyệt Thiềm không có quân VNCH trú đóng.

Trong các ngày kế tiếp, TC tiếp tục đổ người lên các đảo khác. Tính cho đến ngày 15-1-74, quân TC đã chiếm đóng các đảo Cam Tuyền (Robert), Vĩnh Lạc (Money), Quang Hòa (Duncan) và Duy Mộng (Drummond).

1. Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt (HQ-16) tới Hoàng Sa

Để bảo vệ chủ quyền chính đáng tại Biển Đông, ngày 15-1-74, BTL/HQ/V1DH ra lệnh cho HQ-16 trực chỉ Hoàng Sa để tăng cường cho lực lượng trú phòng, đồng thời dùng biện pháp ôn hòa yêu cầu lực lượng Trung Cộng rời khỏi lãnh hải VNCH. Tuần Dương Hạm (TDH) Lý Thường Kiệt còn chở thêm một phái đoàn Công Binh 6 người thuộc BTL/Quân Đoàn I gồm 1 Thiếu Tá trưởng đoàn, 2 Trung Úy và 2 Trung Sĩ Công Binh. Tháp tùng theo phái đoàn còn có 1 nhân viên dân sự thuộc Toà Tổng Lãnh Sự HK tại Đà Nẵng, và HQ Đại Úy Trần Kim Diệp thuộc BTL/HQ/V1DH. Phái đoàn này có nhiệm vụ thám sát địa thế để thiết lập một phi trường nhỏ trên đảo Hoàng Sa.

HQ-16 do HQ Trung Tá Lê Văn Thự (khóa 10 SQHQ Nha Trang) làm Hạm Trưởng. Hạm Phó là HQ Thiếu Tá Trần Văn Hoa Em (khóa 11 SQHQ Nha Trang) lúc đó nghỉ phép không có mặt trên chiến hạm.Cơ khí trưởng là Đại Úy CK Hiệp (khóa 14 SQHQ Nha Trang). Đúng ra, HQ-16 đã mãn hạn tuần dương tại Vùng I, đang chuẩn bị trở về Sài Gòn nghỉ bến để ăn tết Giáp Dần. Công tác phụ trội tại Hoàng Sa của HQ-16 được dự trù sẽ chấm dứt trong vòng 5 ngày. Tình trạng khiển dụng của chiến hạm tương đối khả quan, nhưng quân số không được đầy đủ vì gần Tết nên nhiều người đi phép, chờ chiến hạm trở về Sài Gòn mới trình diện.

Sáng ngày 16 tháng 1, HQ -16 tới Hoàng Sa, sau đó thả một xuồng đổ bộ gồm 4 nhân viên cơ hữu để đưa 6 người trong phái đoàn thám sát lên đảo Hoàng Sa. Công tác hoàn tất tốt đẹp không có gì trở ngại. Sau đó, chiến hạm tiếp tục công tác tuần dương và phát hiện một số tàu lạ đang lảng vảng trong vùng đảo Cam Tuyền (Robert) về phía Nam. HQ-16 liền đổi đường tới gần để điều tra. Đây là những tàu tương đối nhỏ như loại tàu đánh cá sơn màu xanh đậm có bề ngang và đài chỉ huy khá lớn như loại tàu quân sự. Chiến hạm dùng đèn hiệu để liên lạc yêu cầu các tàu lạ cho biết xuất xứ theo đúng qui luật hàng hải quốc tế nhưng không được trả lời. Khi đến gần hơn mới nhìn rõ những chiếc tàu này treo cờ Trung Cộng.

TDH Lý Thường Kiệt một mặt lập tức báo cáo sự phát hiện về BTL/HQ/V1DH tại Đà Nẵng, đồng thời dùng cờ, đèn và cả máy phóng thanh bằng tiếng Trung Hoa yêu cầu các tàu Trung Cộng phải lập tức rời khỏi lãnh hải Việt Nam. Nhưng các tàu Trung Cộng vẫn không trả lời, một số nhân viên mặc quân phục mầu xanh nhạt đứng trên boong còn buông những lời lẽ khiếm nhã và cử chỉ trêu chọc. HQ-16 vẫn kiên nhẫn dùng loa phóng thanh liên lạc, sau cùng phía tàu Trung Cộng cũng lên tiếng, đòi hỏi ngược lại, yêu cầu HQ-16 rời khỏi lãnh hải của họ! Cứ như vậy, đôi bên dằng co suốt ngày 16-1, không bên nào chịu nhượng bộ cho tới trời tối TDH Lý Thường Kiệt phải di chuyển xa hơn ra ngoài khơi để tránh vùng đá ngầm nước cạn nguy hiểm cho sự an toàn của chiến hạm.

Cùng ngày tại Sài Gòn, hãng thông tấn UPI loan tin "chiến hạm và binh sĩ Việt Nam đã nổ súng vào một toán người đang cắm cờ Trung Cộng tại đảo Cam Tuyền. Không rõ phía Trung Cộng có bắn trả hay không". Trong lúc đó, các giới chức cao cấp trong chính phủ cũng đang họp khẩn để tìm cách đối phó với sự hiện diện đáng nghi ngờ của Trung Cộng tại Hoàng Sa. Trong một cuộc họp báo, Ngoại Trưởng Vương Văn Bắc cho biết tàu Trung Cộng đã xâm nhập hải phận Hoàng Sa và đổ bộ người lên các hải đảo và "hành động này đã mang đến sự đe dọa cho nền an ninh chung trong vùng".

Sáng sớm ngày 17-1, khi HQ-16 quay trở lại vùng đảo Cam Tuyền thấy tàu Trung Cộng vẫn còn ở đó. Ngoài ra, gần đảo Vĩnh Lạc (Money) lân cận cũng có thêm tàu Trung Cộng xuất hiện với hàng trăm lá cờ mầu đỏ cằm rải rác ven bờ biển dọc theo bãi cát trắng. Có lẽ những chiếc tàu mới này đã đổ người lên đảo cắm cờ trong đêm để mạo nhận chủ quyền của Trung Cộng. Hai chiếc tàu dùng để chở quân của Trung Cộng mang số 402 (tên Nam Ngư 1) và 407 (tên Nam Ngư 2).

Tại Sài Gòn, nguồn tin Reuters cho biết Trung Cộng đã gửi hai chiến hạm đến Hoàng Sa sau khi các binh sĩ VNCH bắn vào toán người Trung Cộng trên các hải đảo. Phát ngôn viên quân sự, Trung Tá Lê Trung Hiền cũng cho biết Hải Quân đã phái 6 chiến hạm lớn nhất ra Hoàng Sa để theo dõi các chiến hạm Trung Cộng. Trung Tá Hiền tuyên bố tiếp "Trong lúc này, chúng tôi chưa thể nói sẽ hành động ra sao - gửi thêm lực lượng tăng viện hay chỉ đuổi toán Trung Cộng ra khỏi đảo Cam Tuyền".

2. Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư (HQ-4) nhập vùng

Ngay khi nhận được báo cáo của HQ-16 về sự phát hiện nhiều tàu Trung Cộng xâm nhập hải phận Hoàng Sa, BTL/HQ/V1DH lập tức phản ứng. Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, Tư Lệnh HQ/V1DH chỉ thị KTH Trần Khánh Dư HQ-4 ra Hoàng Sa tăng cường, đồng thời ra lệnh cho HQ-16 đổ bộ nhân viên cơ hữu lên đảo Cam Tuyền để triệt hạ cờ Trung Cộng.

Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư do Hải Quân Trung Tá Vũ Hữu San, xuất thân Khóa 11 Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang, làm Hạm Trưởng. Tác phong đứng đắn, luôn luôn tuân hành và hoàn tất chu đáo mọi chỉ thị của thượng cấp, Trung Tá San không những là một sĩ quan hải quân tài giỏi, mà còn là một hạm trưởng được xếp vào hàng xuất sắc của Hải Quân Việt Nam. Hạm phó của KTH Trần Khánh Dư là Hải Quân Thiếu Tá Nguyễn Thành Sắc, một Sĩ-Quan rất thâm-niên cấp-bậc. Ông từng làm Hạm-trưởng tới 4 chiến-hạm trước khi về HQ.4. Thiếu Tá Sắc là bạn cùng khóa 11 Sĩ Quan Hải-Quân với Hạm Trưởng Vũ Hữu San.

Tại cầu tàu của bán đảo Tiên Sa, Đà Nẵng, lúc đó HQ-4 đang nhận đạn-dược, dầu, nước ngọt cũng như thực phẩm; được lệnh hoàn tất việc tiếp tế và lên đường càng sớm càng tốt vì theo báo cáo của HQ-16, tình hình tại Hoàng Sa mỗi lúc một căng thẳng thêm. Mọi nhân viên trên chiến hạm đều ráo riết chuẩn bị và làm việc không ngưng nghỉ để kịp thời lên đường. Vào khoảng nửa đêm 16 rạng ngày 17-1, KTH Trần Khánh Dư vận chuyển tách bến Đà Nẵng trực chỉ Hoàng Sa, chở theo một trung đội Biệt Hải thuộc Sở Phòng Vệ Duyên Hải do Đại Úy Nguyễn Minh Cảnh chỉ huy.

Tới xế trưa ngày 17-1, khoảng 2 giờ chiều, chiến hạm tới vùng hành quân, hợp cùng với HQ-16 tuần-tiễu phòng-thủ Hoàng Sa. Trong thời gian này, Hạm-Trưởng HQ.4 là Trung Tá San được Phó Đề Đốc TL/HQ/V1ZH chỉ định làm Chỉ Huy Trưởng cuộc Hành Quân Bảo Vệ Quần Đảo Hoàng Sa, chịu trách nhiệm điều động tất cả lực-lượng thủy-bộ Việt-Nam, trên đảo cũng như các chiến hạm.

Khi vừa nhập vùng, Hạm Trưởng HQ-4 đã có những hành động tức thời để uy hiếp lực lượng Trung Cộng. HQ-16 được lệnh vận chuyển từ phía Bắc (đảo Hoàng Sa) xuống, trong khi HQ-4 từ hướng Nam (đảo Vĩnh Lạc) tiến lên tạo thành thế gọng kìm xiết chặt hai chiếc tàu Trung Cộng vào giữa. Thấy lực lượng VNCH được tăng cường và nhất là có phản ứng mạnh hơn so với mấy ngày hôm trước, nhưng hai chiếc tàu Trung Cộng vẫn còn bám chặt vùng đảo Cam Tuyền. Đôi bên lại dùng loa phóng thanh để trao đổi yêu sách, bên này đòi bên kia phải rời khỏi hải phận của mình. Thấy dằng co hồi lâu vẫn không đạt được kết quả mong muốn, Trung Tá San vận-chuyển HQ-4 húc mũi tàu của mình vào ngư thuyền 407 của Trung Cộng, đẩy tàu này ra xa ngoài khơi để cảnh cáo. Vì mũi tàu HQ-4 cao lớn hơn, đài chỉ-huy của tàu Trung Cộng bị đè dẹp và phòng lái thấp hơn bị bể một lỗ lớn. Trước hành động quyết liệt đó, hai chiếc tàu Trung Cộng đành phải nhượng bộ[1], rời vùng chạy vòng qua phía nam Cam Tuyền, sau đó chạy về phía hai đảo Duy Mộng và Quang Hòa ở hướng Đông Nam.

Sau khi đuổi được hai tàu Trung Cộng đi chỗ khác để bảo đảm an ninh cho toán đổ bộ, chiến hạm VNCH tiến hành việc đổ quân như đã dự trù.

Hai ngày trước đó, TDH Lý Thường Kiệt đã thành-công trong việc đổ bộ một toán nhân viên cơ hữu gồm 14 người lên đảo Vĩnh Lạc để dẹp cờ Trung Cộng và cắm cờ VNCH. Toán nhân viên này đa số được lựa trong ngành trọng pháo quen tác chiến, mang theo súng ống, đạn được và lương khô đủ dùng trong vòng ba ngày. Trưởng toán đổ bộ là Trung Úy Lâm Trí Liêm xuất thân khóa 10 OCS được đào tạo tại Trường Hải Quân Rhodes Island, Hoa Kỳ. Trung úy Liêm trước đây đã từng phục vụ tại các giang đoàn chiến đấu trong các sông rạch miền Nam nên tương đối có nhiều kinh nghiệm tác chiến trên bộ.

Toán đổ bộ lên đảo Vĩnh Lạc không gặp sức kháng cự nào, chỉ tìm thấy mấy ngôi mộ mới và vài lá cờ Trung Cộng. Tất cả những dấu tích ngụy tạo này đều bị binh sĩ VNCH phá hủy.

Tiếp đó, theo đúng lệnh hành quân,HQ-4 đổ bộ 14 nhân viên cơ hữu lên đảo Cam Tuyền. Tại đây, Trung Cộng có 3 tàu neo gần đảo và mấy chiếc xuồng nhỏ để liên lạc với những người trên đảo. Khi thấy lực lượng VNCH đổ quân, những chiếc tàu Trung Cộng lặng lẽ thu quân rút lui không chống trả. Toán đổ bộ lục soát tìm thấy một lá cờ Trung Cộng mới cắm vài ngày trước. Các dấu tích cũ của VNCH vẫn còn trên đảo gồm một tấm bia ghi ngày 5-12-1963 của Thủy Quân Lục Chiến, 2 bể chứa nước mưa bằng xi măng và một ngôi miếu nhỏ có hàng chữ đề ngày 31-11-1963.

Khoảng 6 giờ chiều ngày 17-1, hai chiến hạm của Hải Quân Trung Cộng loại Kronstadt (viết tắt là K-) trang bị hải pháo 100 ly và 37 ly mang số 271 và 274 xuất hiện. Có lẽ những chiến hạm này xuất phát từ căn cứ hải quân Yulin ở phía Nam đảo Hải Nam đến tăng cường theo lời cầu cứu của mấy chiếc tàu chở quân. Hai chiếc Kronstadt từ đảo Quang Hòa xả hết tốc độ hướng về phía các chiến-hạm HQ-4 và HQ-16 với thái độ khiêu khích thách thức. Tuy nhiên các chiến hạm VNCH vẫn bình tĩnh và ôn hòa dùng đèn hiệu yêu cầu tàu Trung Cộng hãy rời khỏi hải phận Việt Nam. Phía Trung Cộng cũng dùng quang hiệu trả lời, yêu cầu các chiến hạm VNCH rời khỏi hải phận của họ. Đôi bên trao đổi tín hiệu chừng một tiếng đồng hồ không có kết quả, nhưng trước thái độ cương quyết của phía VNCH, hai chiếc Kronstadt đành nhập đoàn với những tàu Trung Cộng khác lui về bố trí tại hai đảo Quang Hòa và Duy Mộng. Dường họ có ý định củng cố lực lượng và bảo vệ toán quân đã được đổ bộ lên đảo.

Trước đó, thấy tình hình càng thêm căng thẳng vì Trung Cộng có ý đồ nhất quyết chiếm giữ quần đảo Hoàng Sa bằng võ lực, BTL/HQ/V1DH tại Đà Nẵng đã ban hành lệnh hành quân Hoàng Sa 1 (số 50.356, nhóm ngày giờ 180020H/01/74). Nội dung được tóm tắt như sau: 
a. Nhiệm vụ:
Chiếm lại các đảo Cam Tuyền, Quang Hòa, Duy Mộng và Vĩnh Lạc. 
b. Thi hành:
HQ-16 chiếm đảo Vĩnh Lạc bằng nhân viên cơ hữu.
HQ-4 nhận 32 nhân viên Biệt Hải tại Đà Nẵng có nhiệm vụ đổ bộ chiếm đảo Cam Tuyền, Duy Mộng và Quang Hòa.
HQ-5 chở toán Hải Kích từ Đà Nẵng ra Hoàng Sa để phối hợp và tăng cường cho toán Biệt Hải.
Các đảo sau khi chiếm được sẽ giao cho Trung Đội Địa Phương Quân trấn giữ.
Toán đổ bộ phải cố gắng dùng biện pháp ôn hòa nhưng cứng rắn để yêu cầu người và tàu bè xâm nhập bất hợp pháp ra khỏi lãnh hải VNCH. 
c. Chỉ huy:
TL/HQ/V1ZH chỉ huy tổng quát. HQ Đại Tá Hà Văn Ngạc là Sĩ Quan chỉ huy công tác trên mặt biển. (Ghi chú của người viết: trong suốt cuộc hành quân, TL/HQ/V1ZH là Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại ở tại bản doanh Đà Nẵng, còn Đại Tá Ngạc tới trưa ngày 18-1 mới ra tới vùng hành quân. Trước đó Hạm-Trưởng Vũ-Hữu-San được chỉ định làm SQ chỉ huy công tác trên mặt biển như trên đã nói.)

3. Tuần Dương Hạm Trần Bình Trọng HQ-16 và Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ-10 ra Hoàng Sa

Được tin Hải Quân Trung Cộng gửi thêm nhiều chiến hạm thuộc Hạm Đội Nam Hải đến Hoàng Sa, Hải Quân VNCH cũng tăng cường thêm chiến hạm. Tuần Dương Hạm Trần Bình Trọng HQ-5 được lệnh tiếp tế khẩn cấp tại Đà Nẵng và rời quân cảng trong thời gian sớm nhất, còn Hộ Tống Hạm Nhật Tảo đang tuần tiễu tại vùng Đà Nẵng cũng được lệnh tiếp ứng.

Hạm Trưởng HQ-5 là HQ Trung Tá Phạm Trọng Quỳnh, cùng khóa 11 SQ/HQ Nha Trang với Hạm Trưởng HQ-4 Vũ-Hữu-San. Trung Tá Quỳnh là người rất mực thước, đứng đắn, ngay từ khi còn thụ huấn tại quân trường đã tỏ ra có nhiều đức tính tốt cần thiết để trở thành một vị Hạm Trưởng thành công.

Trung Tá Quỳnh vừa nhận lãnh quyền chỉ huy Tuần Dương Hạm Trần Bình Trọng tại Vũng Tàu. Khi được lệnh từ BTL Hạm Đội, Ông trực chỉ Vùng I ngay vì nhu cầu hành quân. Chiến hạm ra tới Đà Nẵng và cập cầu Tiên Sa tại bán đảo Sơn Chà vào ngày 17-1. Lúc đó, tại Hoàng Sa tình tình đã rất khẩn trương vì HQ-4 và HQ-16 đang phải đương đầu với một lực lượng thủy bộ khá mạnh của Trung Cộng.

Về chiếc Hộ Tống Hạm Nhật Tảo, Hạm Trưởng là HQ Thiếu Tá Ngụy Văn Thà, xuất thân khóa 12 SQHQ Nha Trang. Thiếu Tá Thà là một vị Hạm Trưởng trẻ tuổi có nhiều kinh nghiệm hành quân trong sông, xứng đáng là một cấp chỉ huy gương mẫu trong Hải Quân. Hạm Phó của HQ-10 là HQ Đại Úy Nguyễn Thành Trí, xuất thân khóa 17 SQHQ Nha Trang.

HQ Đại Tá Hà Văn Ngạc, được TL/HQ/V1DH chỉ định làm Sĩ Quan chỉ huy công tác trên mặt biển, đặt Bộ Chỉ Huy trên HQ-5. Ông là một sĩ quan có kinh nghiệm hải hành và đương nhiệm Chỉ Huy Hải Đội 3 Tuần Dương[2] gồm các chiến hạm chủ lực như Hộ-Tống-Hạm, Tuần-dương-Hạm, Khu-Trục-Hạm. XE "Khu-Trục-Hạm" Lúc bấy giờ, có lẽ Đại Tá Ngạc là người hợp lý nhất để được tuyển chọn làm Sĩ Quan Chỉ Huy Chiến Thuật (OTC). BTL/HQ/V1DH còn chỉ định HQ Thiếu Tá Nguyễn Chí Toàn xuất thân Khoá 11 SQHQ Nha Trang đi theo HQ-5 để phụ tá Đại Tá Ngạc. Ngày 18-1, hồi 11 giờ 30 đêm, từ soái hạm HQ-5, ông gửi đi một công điện hành quân "Thượng Khẩn" tới các chiến hạm HQ-4, HQ-16 và HQ-10 thuộc quyền, nội dung được tóm tắt như sau: 
a. Nhiệm vụ:
Hành quân thủy bộ cấp tốc chiếm đảo Quang Hòa. 
b. Thi hành:
Hoàn tất nhiệm vụ bằng đường lối ôn hòa. Nếu địch khai hỏa kháng cự, tập trung hỏa lực tiêu diệt địch. 
c. Kế hoạch:
Hai chiến hạm HQ-16 và HQ-10 có nhiệm vụ yểm trợ cho lực lượng đổ bộ bằng cách bám sát hai chiến hạm Kronstadt mang số 271 và 274 của Trung Cộng. Nếu địch khai hỏa, HQ-16 và HQ-10 phải lập tức dùng hỏa lực cơ hữu để tiêu diệt.

HQ-4 có nhiệm vụ đổ bộ toán Biệt Hải vào mặt Tây đảo Quang Hòa và yểm trợ hải pháo cho lực lượng đổ bộ. Chiến hạm cũng được lệnh canh chừng và sẵn sàng tiêu diệt các tàu đánh cá võ trang và tàu nhỏ của địch. 
d. Ngày N là ngày 19/1/74; giờ H là 6 giờ sáng (0600H).
e. Qui luật khai hỏa: được căn cứ trên hai trường hợp căn bản sau đây:
Nếu địch khai hỏa trước: Ta phản ứng bằng hỏa lực cơ hữu để tiêu diệt lực lượng địch càng nhiều càng tốt. Ưu tiên hỏa lực nhắm vào các đơn vị quan trọng như Kronstadt hoặc loại chiến hạm lớn hơn nếu có.

Nếu địch tỏ vẻ ôn hòa: Ta dè dặt và cảnh giác tối đa với sự ôn hòa tương ứng, đồng thời tiếp tục thi hành nhiệm vụ chiếm đảo Quang Hòa bằng cách thương lượng quyết liệt để địch rút lui. Sau đó sẽ trương quốc kỳ Việt Nam và tổ chức phòng thủ trên đảo.

Nếu địch không khai hỏa trước nhưng không chịu rút lui: Đối với lực lượng hải quân địch, áp dụng qui luật quốc tế để yêu cầu rời khỏi lãnh hải. Nếu địch ngoan cố, áp dụng những huấn thị căn bản về việc ngăn chận các chiến hạm và chiến thuyền xâm nhập hải phận. Đối với lực lượng địch trên đảo, phản ứng thích nghi tùy thuộc vào kết quả của việc thương lượng.

Với Chỉ Huy Trưởng Hải Đội có mặt trên chiến hạm, HQ-5 ráo riết chuẩn bị cho cuộc hành quân thủy bộ tái chiếm Hoàng Sa. Sau đây là các hoạt động chính của Tuần Dương Hạm Trần Bình Trọng và Hộ Tống Hạm Nhật Tảo, một thành phần của Phân Đoàn Đặc Nhiệm 213.7.1. Những hoạt động này được căn cứ vào phúc trình số 001/HQ.5/PT/K ngày 21 tháng 2 năm 1974 của TDH Trần Bình Trọng:

- Ngày 17-1: HQ-5 tới Đà Nẵng nhận tiếp tế dầu nước và đón Đại Đội Hải Kích gồm có 49 người do Đại Úy Trần Cao Sạ (khóa 16 SQHQ Nha Trang) chỉ huy.

- Nửa đêm 17 rạng ngày 18-1, hồi 180012H (sau nửa đêm 12 phút), HQ-16 khởi hành từ Đà Nẵng đi Hoàng Sa.

- Hồi 3 giờ 15 sáng (180315H), chiến hạm tới điểm hẹn với HQ-10 tại vị trí cách hải đăng Tiên Sa 9 hải lý về hướng Đông (ngoài khơi cửa biển Đà Nẵng). Theo báo cáo, tình trạng kỹ thuật của HQ-10 không được khả quan: chỉ còn một máy chánh, máy kia bị hư hỏng chưa kịp sửa chữa nên vận tốc bị giảm trên 30%, radar hải hành cũng bị hư không xử dụng được. Sau khi gặp nhau, hai chiến hạm đổi đường hướng về Hoàng Sa, đội hình hàng dọc theo thứ tự HQ-10, HQ-5.

- Vì HQ-5 cần tới Hoàng Sa đúng giờ hẹn như đã dự trù, mà vận tốc của HQ-10 quá chậm, nên vào hồi 0327H, Sĩ Quan Chỉ Huy Chiến Thuật (OTC) ra lệnh cho HQ-5 tăng máy, tách khỏi đội-hình trực chỉ đảo Cam Tuyền. Theo lời thuật lại của Hạm Trưởng HQ-5, tuy bỏ lại HQ-10 phía sau, nhưng HQ-5 vẫn dùng radar để hướng dẫn tàu bạn trên đường tới Hoàng Sa.

- Hồi 3 giờ chiều (1500H) ngày 18-1, HQ-5 tới Hoàng Sa. Lúc đó, lực lượng hải quân đôi bên như sau: ta có 3 chiến hạm là HQ-4, HQ-5 và HQ-16; phía Trung Cộng có hai tàu Kronstadt mang số 271 và 274, hai tàu chở quân võ trang mang số 402 và 407, một tàu vận tải và một ghe buồm. Hai chiến hạm Kronstadt chủ lực của địch di chuyển quanh các đảo Quang Hòa và Duy Mộng để bảo vệ lực lượng bộ binh đã chiếm đóng đảo. Các chiến hạm ta vào nhiệm sở tác chiến toàn diện vào lúc 3 giờ 15 chiều.

Sau khi HQ-5 tới Hoàng Sa, các chiến hạm ta lập tức vận chuyển theo đội hình tác chiến để quan sát và thăm dò phản ứng địch. Hồi 4 giờ chiều, khởi đi từ vị trí nằm về hướng Đông Đông Nam và cách đảo Cam Tuyền chừng 3 hải lý, ba chiến hạm vào đội hình hàng dọc theo thứ tự HQ-16, HQ-5 và HQ-4, trực chỉ phía Tây đảo Quang Hòa là nơi các chiến hạm Trung Cộng đang tập trung. Tới 4 giờ 16 chiều, thấy các chiến hạm VNCH tới gần, lực lượng Trung Cộng cũng phản ứng. Hai chiến hạm Kronstadt vận chuyển về hướng Tây Nam đảo để nghênh cản và chận đường. Hai toán chiến hạm càng tiến gần nhau, tình hình càng căng thẳng. Đôi bên đều vào nhiệm sở tác chiến nhưng các hải pháo vẫn còn ở vị thế nằm ngang, chưa nhắm thẳng vào nhau.Vì chỉ muốn thăm dò phản ứng địch nên trước tình trạng gay cấn đó, các chiến hạm VNCH tạm bỏ ý định tiến đến gần đảo Quang Hòa và ngưng máy thả trôi tại vùng giữa đảo Cam Tuyền và Quang Hòa. Lực lượng Trung Cộng cũng không giám gây hấn, trở lại quanh quẩn tại chỗ cũ.

Hồi 5 giờ 15 chiều, theo lệnh của Sĩ Quan Chỉ Huy Chiến Thuật, HQ-5 thả xuồng đưa một số hải kích qua HQ-16 và nhận lại toán thám sát Hoàng Sa thuộc Quân Đoàn I gồm 1 Thiếu Tá, 2 Trung Úy Công Binh, 2 binh sĩ Công Binh, 1 nhân viên thuộc Đài Khí Tượng Hoàng Sa và một người Mỹ. Sau đó, chiến hạm tiếp tục tuần tiễu trong vùng trách nhiệm thuộc phía Đông Đông Nam của đảo Cam Tuyền.

Khi lên HQ-5, thấy tình hình giữa các chiến hạm Việt Nam đang ráo riết chuẩn bị đổ bộ tác chiến và tình hình quá căng thẳng, nhân viên Hoa Kỳ trong nhóm thám sát yêu cầu được rời chiến hạm, trở về đảo Hoàng Sa. Vì vậy, vào lúc 9 giờ tối, Sĩ-Quan Chỉ-huy Chiến-Thuật (SQ/CHCT) ra lệnh cho HQ-5 tới gần đảo Hoàng Sa rồi thả xuồng đưa 7 người trong nhóm thám sát lên đảo. Riêng HQ Đại Úy Trần Kim Diệp thuộc BTL/V1DH ở lại chiến hạm. Có lẽ nhân viên Hoa Kỳ trong nhóm thám sát đã được nguồn tin riêng thông báo sẽ có đụng độ giữa hai lực lượng nên không muốn hiện diện trên chiến hạm Việt Nam, có thể gây rắc rối về mặt ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Trung Cộng.

Trong đêm 18 rạng ngày 19-1, các chiến hạm HQ/VNCH thả trôi và tuần tiểu trong vùng biển phía Tây Hoàng Sa, bên ngoài các đảo của nhóm Nguyệt Thiềm để tránh những khu vực đá ngầm nguy hiểm và cũng để tránh sự quan sát của lực lượng Trung Cộng. Lúc này, HQ-10 cũng đã tới khu vực hành quân. Như vậy, lực lượng HQVNCH đã có 4 chiến hạm trong vùng Hoàng Sa.

Sáng sớm ngày 19-1, vào lúc 3 giờ 50 sáng, SQ/CHCT ra lệnh cho các chiến hạm VNCH chia làm hai cánh. Phân đội 1 gồm HQ-5 và HQ-4 di chuyển từ vùng biển bên ngoài vòng sâu về phía Nam đảo Vĩnh Lạc, trong khi Phân Đội 2 gồm HQ-16 và HQ-10 trong vùng lòng chảo, cùng hướng tới đảo Quang Hòa theo thế gọng kìm. Phân đội 1 có nhiệm vụ đổ bộ toán Biệt Hải và Hải Kích để chiếm lại đảo, trong khi phân đội 2 lãnh phần yểm trợ hải pháo cũng như ngăn chận các chiến hạm Trung Cộng. Vì trời còn tối nên đội hình các chiến hạm Việt Nam di chuyển rất thận trọng, dự trù sẽ tới mục tiêu lúc trời vừa rạng sáng.

Tới 5 giờ sáng, các chiếm hạm tới vị trí Tây Bắc, cách đảo Vĩnh Lạc chừng 3 hải lý. Nhiệm sở tác chiến toàn diện được ban hành lúc 5 giờ 25 sáng khi đội hình bắt đầu vào trở lại bên trong các hải đảo của nhóm Nguyệt Thiềm.


[1] Quân-Ủy Trung-Ương Trung-Cộng bắt đầu “ngán” KTH Trần-Khánh-Dư (họ gọi là Soái-hạm số 4 – “4th command ship”) và rất ngại HQ.4 bất-thần tấn-công bất-cứ lúc nào. Translated From http://www.ccjs.net/1117/171/23.HTM: According to the instruction from superiors spirit, the command hunts for the submarine rapidly closes up, monitors the enemy 4th command ship motion, takes strict precautions against the enemy warship the suddenly attack.

[2] Hải Đội 3 Tuần Dương là một tổ-chức hành-chánh trực-thuộc Bộ Tư-Lệnh Hạm-Đội. Hai Hải-đội kia là Hải-đội 1 Tuần-Duyên (gồm các Tuần-Duyên-Hạm, Giang-Pháo-Hạm, Trợ-Chiến-Hạm) và Hải-đội 2 Chuyển-Vận (gồm các Dương-Vận-Hạm, Hải-Vận-Hạm, Giang-Vận-Hạm, Hỏa-Vận-Hạm).
1.                             

• Hạ thủy ngày 15/4/1942 và bắt đầu hoạt động kể từ ngày 12/4/1943.
• Đặc tính tương tự như HQ-5.

Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư HQ-4
• Nguyên là USS Forster DER 334 của Hải Quân Hoa Kỳ.
• Được chuyển giao cho HQVN vào ngày 25/9/ 1971.
• Đóng tại thủy xưởng Consolidated Steel Corporation, Orange tiểu bang Texas.
• Hạ thủy ngày 13/11/1943 và bắt đầu hoạt động kể từ ngày 25/1/1944.
• Trọng tải: 1590 tấn tiêu chuẩn, 1850 tấn tối đa.
• Kích thước: dài 306 ft, ngang 36.6 ft, tầm nước 14 ft.
• Máy chánh: 2 máy dầu cặn loại Fairbank Morse 6,080 mã lực.
• Vận tốc tối đa 21 knots
• Vũ khí : 2 đại bác 76 ly, một tại sân trước có pháo tháp và một tại sân sau lộ thiên cùng một số đại bác 20 ly.[1]
• Thủy thủ đoàn: chừng 175 người.

HQ-4 nguyên là một Khu Trục Hạm thuần túy có nhiệm vụ yểm trợ phòng không và chống tàu ngầm, nhưng sau thế chiến thứ hai đã được hoàn toàn tân trang và gắn loại radar TACAN (Tactical Aircraft Navigation) để trở thành loại chiến hạm chuyên dùng radar để phát hiện hỏa tiễn địch (radar picket). Chiến hạm này đã từng tham dự chiến dịch Market Times ngoài khơi Việt Nam để ngăn chận sự xâm nhập của Cộng sản bằng đường biển.

Hộ Tống Hạm Nhựt Tảo HQ-10
• Nguyên là USS Serene (MSF 300). Đây là loại tàu chuyên được dùng để rà mìn ngoài đại dương (MSF - Mine Sweeper Fleet).
• Được chuyển giao cho HQVN vào tháng 1/1964 cùng với Hộ Tống Hạm Chí Linh.
• Đóng tại thủy xưởng Winslow Marine & SB Co., Winslow, tiểu bang Washington.
• Trọng tải 650 tấn tiêu chuẩn, 945 tấn tối đa.
• Dài 184.5 ft, ngang 33 ft, tầm nước 9.75 ft.
• Máy chánh: 2 máy dầu cặn Cooper Bessemer 1710 mã lực, 2 chân vịt.
• Vận tốc tối đa 14 knots.
• Vũ khí: 1 đại bác 76 ly lộ thiên ở sân trước, 2 đại bác 40 ly đơn bên tả và hữu hạm ở sân giữa, 4 đại bác 20 ly đôi ở hai bên đài chỉ huy và ở sân sau.
• Thủy thủ đoàn chừng 80 người.

Khi được chuyển giao cho HQVN, chiến hạm được biến cải từ tàu vớt mìn thành tàu hộ tống. Các dụng cụ rà mìn được cắt bỏ. Các vũ khí chống tàu ngầm được thêm vào gồm 2 giàn thả thủy lựu đạn (depth charge) ở sân sau và một giàn phóng thủy lựu đạn loại Hedgehog ở sân trước.
b. Hải Quân Trung Cộng
Tổng cộng gồm 11 chiếc tàu đủ loại, trong số này có 2 Hộ Tống Hạm chống tàu ngầm (Submarine Chaser) loại Kronstadt mang số 271 & 274 và 2 chiếc Trục Lôi Hạm (tàu rà mìn) loại T-43 mang số 389 & 396 trực tiếp tham chiến là có hỏa lực đáng kể. Ngoài ra, còn có 2 Kronstadt mang số 281 và 282 tới sau trận hải chiến. Những chiếc khác là tàu chở quân hay ngư thuyền võ trang.

Tài liệu của Trung Cộng cho biết về lực lượng của họ tại Hoàng Sa như sau:

"Ngày 17 tháng 1, Quân Ủy Trung Ương ra lệnh Hạm Đội Nam Hải lập tức phái chiến hạm tuần tiễu tại Hoàng Sa, đồng thời ra lệnh Quân Khu Hải Nam gửi quân lính theo tàu ra giữ đảo. Theo lệnh Quân Ủy Trung Ương, quân khu Quảng Châu ra lệnh Hạm Đôi Nam Hải phái hai Trục Lôi Hạm 396 và 389 thuộc Phân Đội Trục Lôi 10 căn cứ tại Quảng Châu và hai Hộ Tống Hạm loại Kronstadt 271 và 274 thuộc Phân Đội chống Tiềm Thủy Đĩnh 73 căn cứ tại Yulin, lên đường ra Hoàng Sa vào các ngày 17 và 18 để tuần tiễu. Ngoài ra, Quân Khu Hải Nam còn phái 4 Đại Đội Bộ Binh để chiếm đóng các đảo Vĩnh Lạc, Cam Tuyền và Quang Hòa. Thêm vào đó, Căn Cứ Hải Quân Quảng Châu còn phái 2 chiến hạm Kronstadt 281 và 282 thuộc Phân Đội Chống TTĐ 74 tới Hoàng Sa sau đó làm lực thành phần tiếp ứng. Toàn thể lực lượng được đặt dưới quyền chỉ huy của Tư Lệnh Phó Hạm Đội Nam Hải tên Wie Ming Sen lúc đó có mặt tại can Cứ Hải Quân Yulin nằm vế phía Nam đảo Hải Nam. Bộ Tư Lệnh Hành Quân được đặt trên soái hạm Kronstadt 271 thuộc Phân Đội 73. Về không yểm, quân khu Quảng Châu ra lệnh Phi Đoàn 22 thuộc Hạm Đội Nam Hải cử 2 phi cơ túc trực bao vùng, đồng thời yêu cầu Không Quân thuộc Quảng Châu sẵn sàng yểm trợ."

Sau đây là đặc tính của các chiến hạm Trung Cộng.

Hộ Tống hạm Kronstadt : Sáu chiếc Kronstadt đầu tiên trong HQ Trung Cộng do Nga chế tạo vào khoảng năm 1950 - 1953 và chuyển giao vào năm 1956 -1957. Sau này Trung Cộng tự đóng thêm 12 chiếc nữa tại các xưởng đóng tàu Thượng Hải và Quảng Đông, chiếc sau cùng hoàn tất vào năm 1957. Đặc tính của loại Kronstadt là mình hẹp, lườn thấp và có vận tốc cao để săn đuổi tàu ngầm. Trước năm 1974, loại tàu Kronstadt mang chiến số từ 600 trở lên, sau này được đổi lại với chiến số loại 200 sơn ngoài vỏ tàu.

• Trọng tải: 310 tấn tiêu chuẩn, 380 tấn tối đa.
• Kích thước: dài 170 ft, ngang 21.5 ft, tầm nước 9 ft (52 m x 6.5 x 2.7)
• Máy chánh: 2 máy dầu cặn 3,300 mã lực, 2 chân vịt.
• Vận tốc tối đa 24 knots.
• Vũ khí: 1 đại bác 100 ly (3.9 inch) ở sân trưóc và 2 đại bác 37 ly ở sân sau, 2 giàn thủy lựu đạn và 2 giàn thả mìn.
• Thủy thủ đoàn: chừng 65 người.
Trục Lôi Hạm T-43 : Hai chiếc đầu tiên do Nga chế tạo và chuyển giao vào khoảng năm 1954 -1955. Sau đó Trung Cộng tự đóng thêm 18 chiếc nữa.
• Trọng tải: 500 tấn tiêu chuẩn, 610 tấn tối đa.
• Kích thước: dài 190.2 ft, ngang 28.2 ft, tầm nước 6.9 ft (58 m x 6.1 x 2.6)
• Máy chánh: 2 máy dầu cặn 2,000 mã lực, 2 chân vịt.
• Vận tốc tối đa 17 knots.
• Vũ khí: đại bác 85 ly (3.5 inch)[2]
• Thủy thủ đoàn: chừng 40 người.



Đặc-tính Hộ-Tống-Hạm Kronstadt của TC.


Đặc-tính Trục-Lôi-Hạm T 43 của TC. 

2. Lực lượng trừ bị ứng chiến
a. Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa
Gồm 2 chiến hạm:
• Tuần Dương Hạm Trần Quốc Toản HQ-6.
• Hộ Tống Hạm Chí Linh HQ-11.

Những chiến hạm này vì được điều động từ xa tới nên không thể có mặt tại Hoàng Sa trước ngày 19 tháng 1.

Về Không Quân, tuy có tin các phi đoàn phản lực cơ F-5 và A-37 được lệnh túc trực tại phi trường Đà Nẵng nhưng Không Quân cho biết những phi cơ này có tầm hoạt động ngắn khó thể ra tới Hoàng Sa. Cũng có nguồn tin không chính thức cho biết đã có ý định xử dụng các Dương Vận Hạm (LST - Landing Ship Tank) như mẫu hạm tạm thời để chở các trực thăng võ trang ra Hoàng Sa nhưng kế hoạch này không được thực hiện. Tóm lại, các chiến hạm HQ/VNCH không có phi cơ trợ chiến. 
b. Hải Quân Trung Cộng
Gồm nhiều chiến hạm đủ loại và phi cơ Mig đủ loại:
• 4 Khinh Tốc Đĩnh Hỏa Tiễn loại Komar.
• Nhiều Khu Trục Hạm mang hỏa tiễn loại Kianjiang.
• 2 tiềm thủy đĩnh mang số 282 và 295.
• Phi cơ Mig.

Khinh Tốc Đĩnh Hỏa Tiễn Komar : Chiếc Komar đầu tiên do Nga chuyển giao vào năm 1965, 2 chiếc khác vào năm 1967 và 7 chiếc nữa trong khoảng năm 1968 -1971. Sau đó Trung Cộng tự đóng thêm chừng 10 chiếc khác và đặt tên là "Hoku". Loại chiến hạm này tuy nhỏ nhưng rất nguy hiểm vì có vận tốc nhanh, dễ vận chuyển nên là một mục tiêu rất khó bắn trúng. Ngoài ra, loại hỏa tiễn Styx có thể bắn trúng mục tiêu cách xa vài chục cây số. Ai Cập đã dùng hỏa tiễn loại này đánh chìm Khu Trục Hạm Eilat, chiếc tàu lớn nhất của Hải Quân Do Thái trong trận chiến tranh năm 1967.

• Trọng tải: 70 tấn tiêu chuẩn, 80 tấn tối đa.
• Kích thước: dài 83.7 ft, ngang 19.8 ft, tầm nước 5 ft (25.5 m x 6 x 1.8)
• Hỏa tiễn: 2 giàn phóng hỏa tiễn loại Styx dùng để bắn chiến hạm.
• Máy chánh: 2 máy dầu cặn 4,800 mã lực, 2 chân vịt.
• Vận tốc tối đa: 40 knots
• Vũ khí: 2 đại bác 25 ly (1 giàn đôi gắn đàng trước mũi).
• Thủy thủ đoàn: chừng 10 người.

Khinh Tốc Đĩnh Hỏa Tiễn Osa : Chiếc Osa đầu tiên do Nga chuyển giao vào tháng 1 năm 1965. Bốn chiếc khác chuyển giao vào năm 1966 - 1967 và 2 chiếc nữa vào năm 1968. Trung Cộng cũng tự đóng lấy một số khác và đặt tên là "Hola"
• Trọng tải: 165 tấn tiêu chuẩn, 200 tấn tối đa.
• Kích thước: dài 128.7 ft, ngang 25.1 ft, tầm nước 5.9 ft (39.3 m x 7.7 x 1.8)
• Máy chánh: 3 máy dầu cặn, 13,000 mã lực.
• Vận tốc tối đa: 32 knots
• Vũ khí: 4 đại bác 30 ly (2 giàn đôi, 1 trước mũi và 1 sau lái).
• Thủy thủ đoàn: chừng 25 người.

VI. TƯƠNG QUAN LỰC LƯỢNG 

Nếu chỉ so sánh về vũ khí, phía VNCH có phần trội hơn vì các Tuần Dương Hạm được trang bị hải pháo 127 ly, trong khi các Kronstadt của Trung Cộng chỉ được gắn súng cỡ 100 ly[3], nhưng trong một trận hải chiến khi đôi bên gần nhau, cỡ súng lớn chưa chắc đã chiếm được lợi thế vì không tận dụng được tầm bắn xa, hơn nữa nhịp bắn lại chậm. Phần các chiến hạm Trung Cộng có vận tốc cao lại nhỏ nhẹ dễ vận chuyển nên chiếm được ưu thế trong lúc cận chiến. Ngoài ra, các chiến hạm VNCH không những vừa to, cao lại xoay trở tương đối chậm nên là mục tiêu rất dễ dàng cho địch thủ nhắm bắn.

Chính Trung Tá San, Hạm Trưởng HQ-4 cho biết vì các chiến hạm Trung Cộng nằm rất thấp gần sát mặt nước nên rất khó bắn trúng. Trong khi các khẩu hải pháo VNCH vì nằm trên cao nên phải xoay trở rất khó khăn, có khi phải hạ cao độ xuống dưới đường chân trời (góc độ trừ) mới có thể nhắm trúng mục tiêu nằm gần. Các chiến hạm Trung Cộng vì thấp hơn nên dễ dàng nâng cao độ của những khẩu đại bác chừng dăm ba độ là đã có thể tác xạ hữu hiệu.

So sánh những sở trường và sở đoản của từng loại chiến hạm, trong trận hải chiến một chọi một tại Hoàng Sa, lực lượng đôi bên có vẻ tương đồng, việc hơn thua phần lớn sẽ do các cấp chỉ huy và tinh thần của thủy thủ đoàn quyết định. Tuy nhiên, kể về lực lượng trừ bị ứng chiến, phía Trung Cng chiếm ưu thế tuyệt đối, nhất là về mặt không yểm. Có thể nói dù đánh chìm hết các tàu Trung Cng trong ngày 19/1, các chiến hạm HQ/VNCH cũng khó ở lại Hoàng Sa vì không thể đương đầu với lực lượng tăng viện của địch.

VII. TRẬN HẢI CHIẾN 

Sáng sớm ngày 19 tháng 1, thấy các chiến hạm VNCH bất thần bao vây và dàn đội hình tác chiến để uy hiếp đảo, lực lượng TC cũng chia thành hai nhóm để nghênh cản. Hai chiến hạm mới tới mang số 389 và 396 vận chuyển về hướng Tây Tây Bắc đảo để chận đường phân đội Bắc, trong lúc 2 Kronstadt còn lại mang số 271 và 274 đối đầu với phân đội Nam tại phía Nam đảo Quang Hòa.

Mặc dù phía Trung Cộng phản ứng mạnh, lực lượng VNCH vẫn tiến hành kế hoạch hành quân đổ bộ tái chiếm đảo Quang Hòa như đã dự trù. Hồi 6 giờ 48 sáng, toán đổ bộ cũng được chia làm hai cánh: cánh Biệt Hải trên HQ-4 được đổ bộ lên mặt Nam, trong khi cánh Hải Kích trên HQ-5 được đổ bộ lên mặt Tây Tây Nam đảo Quang Hòa. Tới 7 giờ 42 sáng, vì gió thổi quá mạnh khiến hai bè cao su chở toán Hải Kích bị dạt ra ngoài khơi nên HQ-5 phải thả xuồng máy để phụ giúp kéo tới điểm đổ bộ. Cũng trong lúc này, Trung Cộng cũng cho đổ thêm quân từ 2 tàu võ trang lên mặt Bắc đảo.

Tuy gặp khá nhiều khó khăn vì gió mạnh và sóng lớn sát bờ, cuối cùng toán Hải Kích cũng đổ bộ lên được mặt Tây Tây Nam đảo Quang Hòa vào lúc 7 giờ 45 sáng. Sau khi hoàn tất nhiệm vụ đổ quân, hai chiến hạm HQ-5 và HQ-4 thuộc phân đội Nam di chuyển trong vùng từ Nam Đông Nam tới Tây Tây Nam của đảo Quang Hòa, có lúc vào sát bờ chỉ cách chừng 1 hải lý để trợ chiến cho lực lượng đổ bộ.

Lực Lượng đổ bộ gồm những thành phần được huấn luyện tinh thục, thiện chiến nhất của HQVN. Toán Biệt Hải do HQ Đại Úy Nguyễn Minh Cảnh (khóa 16 SQHQ Nha Trang) chỉ huy, gồm những quân nhân "người nhái" thuộc Sở Phòng Vệ Duyên Hải. Toán Hải Kích chuyên về phục kích và đánh bộ do HQ Đại Úy Trần Cao Sạ (khóa 16 SQHQ Nha Trang) chỉ huy. Ngay từ khi vừa đặt chân lên bờ đảo, cả hai toán bị quân Trung Cộng trên đảo đông hơn đàn áp. Địch quân trang bị vũ khí nặng dàn hàng ngang ngăn cản và uy hiếp, một số lớn khác ẩn núp trong các gia thông hào và công sự phòng thủ kiên cố để yểm trợ khiến lực lượng đổ bộ không thể nào tiến sâu vào trung tâm đảo.

Tình hình lúc bấy giờ rất nguy cấp và thật bất lợi cho lực lượng VNCH, nhưng vì tuân hành thượng lệnh quyết tâm bảo vệ lãnh thổ nên vào khoảng 9 giờ sáng, SQ/CHCT ra lệnh cho toán Hải Kích vượt lên trước, di chuyển về mặt Tây Nam đảo. Thấy quyết tâm chiếm lại đảo của các chiến sĩ Việt Nam, quân Trung Cộng nấp trong các công sự phòng thủ nổ súng thượng liên vào toán Hải Kích khiến 1 sĩ quan là Trung Úy Lê Văn Đơn và 1 đoàn viên tên Long bị tử thương và 2 đoàn viên khác bị thương. Toán Hải Kích lập tức dùng hỏa lực cơ hữu gồm súng phóng lựu M.79 và súng cá nhân M.16 bắn trả. Còn toán Biệt Hải tuy cũng bị lính Trung Cộng đông hơn uy hiếp nhưng hoàn toàn vô sự. Lúc 10 giờ sáng, soái hạm HQ-5 ở vị trí cách đảo Quang Hòa 5000 yards (khoảng 3 hải lý) về hướng Tây Nam (245 độ).

Vào khoảng 9 giờ 30 sáng, trước tình hình bất lợi và áp lực địch quá mạnh có thể đưa tới nguy cơ toàn thể lực lượng đổ bộ bị địch quân đông hơn tiêu diệt hết, Chỉ-huy-trưởng Phân-đội 1 (gồm HQ-5 và HQ-4) quyết-định rút tất cả hai toán Hải Kích và Biệt Hải kịp thời về chiến hạm,[4] với sự đồng-ý của SQ/CHCT. Lực lượng đổ bộ về tới chiến hạm an toàn, không bị thêm một thiệt hại nào, mang theo được cả xác sĩ quan tử-thương. Hai đoàn viên bị thương được di tản qua HQ-4.

Trước những biến chuyển kém thuận lợi, SQ/CHCT ban hành chỉ thị mới. Trong khoảng thời gian từ 10 giờ 17 sáng cho tới 10 giờ 24 sáng, các chiến hạm Việt Nam vận chuyển chiến thuật để thiết lập một hình vòng cung ở phía Tây đảo Quang Hòa. Phân đội Bắc gồm hai chiến hạm HQ-16 và HQ-10 di chuyển về phía Tây Tây Bắc đảo trong khi phân đội Nam gồm hai chiến hạm HQ-5 và HQ-4 di chuyển từ Tây Nam tới vị trí phía Tây Đảo. Khi thấy các chiến hạm Việt Nam khai triển đội hình mới, bốn chiếc tàu Trung Cộng lập tức bám theo, một đối một. Theo phúc trình hậu hành quân của soái hạm HQ-5, tình hình lúc đó đã hết sức căng thẳng. Chiến hạm đôi bên có lúc chỉ cách nhau 300 hay 400 yards[5] đều ở trong tình trạng nhiệm sở tác chiến toàn diện với các nhân viên ngồi trong các ụ súng. Các khẩu hải pháo chĩa thẳng vào tàu TC trong tư thế sẵn sàng tác xạ tiêu diệt địch.

Lúc đó, vị trí các chiến hạm đều nằm về hướng Tây và Tây Tây Bắc của đảo Quang Hòa. Hải đội VNCH bao vây phía ngoài, cách đảo khoảng 4-5 hải lý, các tàu Trung Cộng nằm hơi chếch về phía bên trong, cách đảo chừng 3-4 hải lý. Vị thế tác chiến của các chiến hạm Việt Nam thiết lập thành hình vòng cung phia bên ngoài, thứ tự từ Bắc xuống Nam được ghi nhận như sau:

- HQ-16 chiếm vị trí cực Bắc của đội hình, sau đó là HQ-10.
- Kế tiếp là HQ-4 và HQ-5 ở vị trí cực Nam.

Các chiến hạm Trung Cộng cũng ở vị thế nghênh cản một chọi một như sau:

- Kronstadt 274 đối đầu HQ-5.
- Kronstadt 271 đối đầu HQ-4.
- MSF[6] 396 đối đầu HQ-10.
- MSF 389 đối đầu HQ-16.

Trên soái hạm HQ-5, SQ/CHCT chỉ định mục tiêu cho từng chiến hạm, đó là những tàu địch đối đầu. Lệnh tác xạ đồng loạt vào các chiến hạm địch được ban hành từ soái hạm HQ-5 vào lúc 10 giờ 22 phút sáng. Trận hải chiến tại Hoàng Sa khởi đầu.

Đến đây, cần mở một dấu ngoặc để tìm câu trả lời đúng nhất cho nghi vấn quan trọng: chiến hạm VNCH hay Trung Cộng đã khai hỏa trước mở đầu trận hải chiến?

Theo các tài liệu của VNCH trước năm 1975, các chiến hạm Trung Cộng đã bắn trước, phía VNCH chỉ phản ứng để tự vệ. Thí dụ như ngay sau khi xảy ra trận hải chiến vào ngày thứ bảy 19 tháng 1, phát ngôn viên quân sự của VNCH là Trung Tá Lê Trung Hiền đã tuyên bố trong một buổi họp báo có các thông tín viên quốc tế tham dự rằng:" Hồi 10 giờ 22 phút sáng nay, một chiến hạm Trung Cộng đã nổ súng bắn vào một tàu tuần dương (cutter) của VNCH tại Hoàng Sa. Chiến hạm VNCH bắn trả để tự vệ khiến tàu Trung Cộng bị cháy. Tàu VNCH chỉ bị hư hại nhẹ". (Sài Gòn - tin Reuter ngày 19 tháng 1 năm 1974).

Chiếc tàu tuần dương của HQ/VNCH mà Trung Tá Hiền nói tới là loại tàu "WHEC" (White High Endurance Cutter) nguyên của Coast Guard Hoa Kỳ, khi chuyển giao cho HQVN được gọi là "Tuần Dương Hạm" như HQ-5 Trần Bình Trọng, HQ-16 Lý Thường Kiệt tham chiến tại Hoàng Sa.

Trong Bản Thông Tin (Communique) chính thức của Bộ Ngoại Giao VNCH phát hành ngày 19/1/74 cũng loan báo nguyên văn như sau: "Sáng nay, ngày 19/1/74, vào hồi 10 giờ 20 sáng, một hộ tống hạm Trung Cộng loại Kronstadt đã nổ súng vào Khu Trục Hạm "Trần Khánh Dư" HQ-04 của VNCH. Chiến hạm VN bắn trả để tự vệ khiến tàu Trung Cộng bị hư hại" (Trích Bản Thông Tin của Bộ Ngoại Giao ngày 19/1/74 loan báo về việc Trung Cộng khơi mào những hành động quân sự tại vùng Hoàng Sa).

Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư đúng ra mang chiến số "HQ-4" chứ không phải là "HQ-04" như đã đăng trong bản tin. Trong HQVN, chiến hạm mang số "HQ-04" là Hộ Tống Hạm (PC - Patrol Craft) Tụy Động lúc đó đã phế thải. Chúng tôi chỉ muốn nói lại cho đúng vì các vị phát ngôn quân sự thường là sĩ quan bộ binh không mấy quen thuộc với các loại chiến hạm của Hải Quân, còn vị phát ngôn viên dân sự của Bộ Ngoại Giao lại càng dễ lẫn lộn hơn.

Nhưng những lầm lẫn "kỹ thuật nhỏ" như HQ-4 và HQ-04 hay chiến hạm VNCH bị tàu Trung Cộng bắn là Tuần Dương Hạm hay Khu Trục Hạm đều không quan trọng. Ở đây, chúng tôi chỉ muốn nhấn mạnh các nguồn tin chính thức của VNCH thời đó đều cho biết các chiến hạm Trung Cộng đã nổ súng trước. Tuy nhiên, những lời tuyên bố chính thức, nhất là về mặt ngoại giao, lại chưa chắc đã là sự thật mà nhiều khi chỉ nhằm mục đích tuyên truyền, tìm thêm hậu thuẫn cho mình. Vì vậy, tới đây, vẫn chưa dứt khoát trả lời được câu hỏi "chiến hạm bên nào đã bắn trước?".

Gần đây, rất may, thay vì sự thật mỗi ngày một mai một với thời gian, chúng ta lại có câu trả lời chắc chắn. Câu trả lời đó nằm trong bài nói chuyện mới đây vào ngày 17/1/1998 nhan đề "Sau 24 năm, nhớ về Hải Chiến Hoàng Sa, tưởng niệm các Liệt Sĩ hy sinh vì Tổ Quốc" của HQ Trung Tá Vũ Hữu San, cựu Hạm Trưởng HQ-4. Trong bài nói chuyện rất cảm động này, Trung Tá San đã cùng với Trung Tá Quỳnh "xác nhận việc các chiến hạm HQ-4, HQ-5, HQ-16 và HQ-10 chúng tôi đã bắn trước vào kẻ xâm lăng". Trung Tá San và Trung Tá Quỳnh, những Hạm Trưởng xuất sắc và quân nhân gương mẫu thuần túy đã đưa ra lý do rất chính đáng và hùng hồn để cần nói lên sự thật này rằng:" Sợ gì mà không nói Hải Quân Việt Nam bắn trước? Giặc vào nhà, ta phải đẩy lui chúng!"

Lý do các vị Hạm Trưởng đáng kính này nêu ra cũng oai dũng như khi họ đứng trên đài chỉ huy, ra lệnh cho chiến hạm bắn thẳng vào tàu địch năm xưa tại Hoàng Sa. Để kiểm chứng thêm, mới đây chúng tôi cũng nói chuyện khá nhiều lần với cựu HQ Trung Tá Phạm Trọng Quỳnh và được ông xác nhận việc các chiến hạm VNCH bắn vào tàu địch trước là đúng vì chính ông đã ra lệnh cho tàu Ông tác xạ mở đầu trận hải chiến tại Hoàng Sa theo lệnh của SQ/CHCHT.

Đặc biệt, trong một cuộc phỏng vấn mới đây, Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, nguyên Tư Lệnh Hải Quân VNCH/V1DH tiết lộ thêm chính Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã trao ông một thủ bút cho phép toàn quyền quyết định, kể cả việc xử dụng biện pháp quân sự. Phó Đề Đốc Thoại cho biết như sau: "Tôi là người duy nhất và trực tiếp ra lệnh cho Đại tá Ngạc "Khai Hỏa" và tôi làm việc này đúng chỉ thị của Tổng Thống Thiệu trong một tài liệu do chính Tổng Thống viết tay chỉ thị trực tiếp cho tôi."

Trở lại các diễn tiến của trận hải chiến Hoàng Sa. Ngay sau khi nhận được lệnh tác xạ chuyển đi từ soái hạm HQ-5, các chiến hạm VNCH đồng loạt khai hỏa vào mục tiêu được chỉ định là các chiến hạm địch đối đầu. Các khẩu đại bác 40 ly và 20 ly tác xạ rất chính xác và hiệu quả vì có nhịp bắn nhanh và mục tiêu lớn lại nằm trong tầm tác xạ hữu hiệu. Các khẩu đại bác 76 ly trên Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư tác xạ cũng rất chính xác nhưng nhịp bắn không được nhanh vì hệ thống radar kiểm xạ viễn khiển bị hỏng từ lâu. Những giàn đại pháo 127 ly trên các Tuần Dương Hạm Trần Bình Trọng và Lý Thường Kiệt có nhịp bắn chậm hơn trong lúc các chiến hạm đôi bên vận chuyển với vận tốc cao nên rất khó nhắm vào mục tiêu. Riêng Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ-10 vì chỉ còn một máy chánh nên xoay trở rất khó khăn và chậm chạp, giàn radar bất khiển dụng, tình trạng kỹ thuật không được khả quan nên lâm vào tình thế rất bất lợi.

Với chiến thuật "tốc chiến, tốc thắng", các chiến hạm VNCH chiếm được thượng phong vì bắn trước với cỡ súng lớn hơn. Các tàu Trung Cộng bị thiệt hại nhiều trong những phút đầu tiên này nhưng cũng chống trả mãnh liệt.

Trên Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt HQ-16 thuộc phân đội Bắc, lệnh tác xạ của Hạm Trưởng, HQ Trung Tá Lê Văn Thự, được đáp ứng ngay bằng quả đạn đầu tiên của khẩu đại pháo 127 ly do Trung Úy Đoàn Viết Ất làm trưởng khẩu. Sau đó, các khẩu đại bác 40 ly và 20 ly từ trước mũi đến sau lái thi nhau bắn vào tàu địch. Giống như như HQ-5, vũ khí chính của Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt là khẩu đại pháo 127 ly (5 inch) đặt tại sân trước. Cũng ở sân trước, đàng sau của khẩu đại pháo là giàn đại bác 40 ly đôi (2 nòng) nằm một tầng cao hơn ngay dưới đài chỉ huy. Hai bên hông đài chỉ huy là các khẩu đại bác 20 ly đôi (2 nòng). Tại sân sau có các khẩu đại bác 40 ly đơn, một bên tả hạm, một bên hữu hạm. Sau đây là lời tường thuật của của một nhân chứng, sĩ quan hải hành Đào Dân (khóa 18 SQ/HQNT?) có mặt trên đài chỉ huy HQ-16 trong lúc xảy ra trận hải chiến:

"Cả chiến hạm như bị giật lùi vì tiếng khai hỏa của đại pháo 127 ly. Những người trên đài chỉ huy chú tâm đến nỗi ai cũng có cảm tưởng mình nhìn thấy được đường đi của viên đại bác dầu tiên. Rồi tiếng nổ dồn dập của khẩu đại bác 40 ly đôi trước mũi và khẩu 40 ly đơn sau lái hữu hạm, cùng với tiếng nổ liên hồi của đại bác 20 ly làm thành một hòa âm khó tả. Khói thuốc súng từ trước mũi, sau lái, boong trên phía sau và ngay đài chỉ huy phía dưới bay lên làm mờ cả một vùng trời trên chiến hạm ... Từ lỗ tròn của ổ đại bác 127 ly trước mũi, Trung Úy Ất đã đứng hẳn người lên, nhô cả thân mình lên trên ụ súng để tận mắt chứng kiến kết quả của những viên đạn đang nổ, điều chỉnh những sai sót.

Tiếng oang oang thường ngày của Ất được dịp phát ra từ đó mà ở đài chỉ huy chúng tôi còn nghe được. "Lên hai độ", "xuống một độ", "bên phải", "bên trái một chút". Cả đài chỉ huy cùng chăm chú theo dõi từng viên đại pháo phát nổ xung quanh tàu địch, bỗng ồ lên như ong vỡ tổ:" Trúng rồi!" Tôi nhìn lên, chếch về phía bên phải mũi tàu, một chiến hạm địch đang bốc khói. Có lẽ là khói của viên đạn nổ tung ngay đài chỉ huy vì sau đó, dường như hoạt động của tàu này có phần chậm lại".

Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ-10 là một hành phần của phân đội Bắc dưới quyền điều động của HQ-16. Trong lúc hải chiến, HQ-10 nằm chếch về hướng Nam, cách HQ-16 chừng 1 hải lý. Vì là một tàu loại rà mìn được biến cải nên là chiến hạm chậm và nhỏ nhất trong số các đơn vị VNCH tham chiến. Ngoài ra, ngay từ khi gia nhập Hải Đội Hoàng Sa, tình trạng kỹ thuật của HQ-10 đã không được khả quan vì chỉ còn một máy chánh, radar lại bị hư. Trước đây, trên đường đi từ Đà Nẵng ra Hoàng Sa vào ngày 18/1, soái hạm HQ-5 đã phải rời đội hình, bỏ HQ-10 lại phía sau vì chạy quá chậm. Tuy cần đi trước cho kịp giờ hẹn với các chiến hạm bạn tại Hoàng Sa, HQ-5 vẫn dùng radar của mình để hướng dẫn HQ-10 hải hành trong đêm. Vũ khí chính của HQ-10 là khẩu trọng pháo 76.2 ly đặt tại sân trước, 2 đại bác 40 ly đơn tại sân giữa và 4 đại bác 20 ly đặt hai bên hông đài chỉ huy và sân sau.

Theo kế hoạch lúc ban đầu, phân đội Bắc có nhiệm vụ yểm trợ hải pháo để phân đội Nam đổ quân chiếm đảo Quang Hòa. Nhưng sau khi cuộc đổ bộ bất thành vì quân Trung Cộng trên đảo quá đông và tàu yểm trợ của chúng cũng rất nhiều - tổng cộng 11 chiếc đủ loại - nên sau khi thảo luận kỹ càng, lực lượng VNCH quyết định tiêu diệt các chiến hạm địch trước. Đây là một quyết định rất sáng suốt vì nếu phá được đoàn tàu yểm trợ, địch quân trên đảo sẽ bị cô lập và sẽ bị đánh tan dễ dàng. Do đó, HQ-10 cũng được chỉ định một mục tiêu tác xạ, đó là chiếc tàu Trung Cộng mang số 396. Theo lời tường thuật của các nhân chứng, chỉ trong vòng 5 phút đầu, các khẩu hải pháo trên HQ-10 đã bắn tê liệt chiến hạm địch, phòng lái và hầm máy bị cháy khiến chiếc tàu này không còn điều khiển được nữa, cứ chạy vòng vòng làm mồi cho hỏa lực chính xác của HQ-10. Tuy nhiên, vì chỉ còn một máy, xoay trở rất khó khăn nên HQ-10 cũng bị trúng nhiều đạn địch. Hạm Trưởng, HQ Thiếu Tá Ngụy Văn Thà bị tử trận, Hạm Phó là HQ Đại Úy Nguyễn Thành Trí bị thương nặng. Sau khi bắn hạ tàu địch, cuối cùng Hộ Tống Hạm Nhựt Tảo cũng bị hy-sinh. Một số nhân viên xuống được bè đào thoát mang theo vị Hạm Phó, nhưng chẳng bao lâu, Đại Úy Trí cũng đền nợ nước vì bị mất máu quá nhiều.

Về việc Hộ Tống Hạm Nhựt Tảo bị chìm, có một số tài liệu nói rằng chiến hạm bị hỏa tiễn từ chiến hạm Trung Cộng bắn trúng đài chỉ huy. Tuy hải quân Trung Cộng có loại tàu Komar trang bị hỏa tiễn hải - hải (surface to surface missile) Styx nhưng lúc đó chưa có mặt tại Hoàng Sa, còn các loại tàu Kronstadt và T-43 tham chiến chỉ trang bị hải pháo cổ điển thông thường, hỏa tiễn nếu có cũng chỉ là loại cá nhân (rocket) cầm tay do toán bộ binh đổ bộ mang theo. Vả lại, nếu có loại phi tiễn đĩnh Komar tham chiến thì có lẽ mục tiêu sẽ là những chiến hạm chủ lực lớn hơn chứ không phải HQ-10 là chiếc nhỏ và kém quan trọng nhất. Theo lời thuật lại của Trung Tá Vũ Hữu San, sau khi trận hải chiến đã chấm dứt, các chiến hạm ta quan sát thấy có 4 lượng sóng bạc đầu rất lớn đang từ hướng Đông Bắc tiến lại rất nhanh. Rất có thể đây mới là các phi tiễn đĩnh Komar hay khinh tốc định Swatow của Trung Cộng từ căn cứ hải quân Yulin thuộc đảo Hải Nam kéo xuống trợ chiến. Nói tóm lại, có nhiều phần vì HQ-10 vận chuyển khó khăn, bất lợi trong lúc hải chiến nên mới bị chìm vì trúng đạn của tàu địch.

Trong số các tàu VNCH tham chiến, có lẽ chỉ Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư HQ-4 mới xứng đáng mang danh "chiến hạm". Trong khi các "chiến hạm" khác tuy được gọi là Tuần Dương Hạm hay Hộ Tống Hạm, nhưng thật ra chỉ là loại tuần duyên (Coast Guard) hay tàu rà mìn của Hoa Kỳ. HQ-4 nguyên là một Khu Trục Hộ Tống Hạm được trang bị radar phòng không tối tân (DER - Destroyer Escort Radar). Vũ khí chính là hai giàn đại pháo 76.2 ly có radar kiểm xạ (radar control) với khả năng tự dò tìm góc độ và tầm xa để "khóa chặt" (lock on) mục tiêu. Đó là nói về loại DER nguyên thủy của Hải Quân Hoa Kỳ, nhưng khi chuyển giao cho Hải Quân Việt Nam, những trang bị tối tân đều đã bị tháo gỡ hay không còn xử dụng được nữa vì thiếu bảo trì hoặc cơ phận thay thế.

Tuy hai khẩu đại pháo 76.2 ly, một tại sân trước và một tại sân sau vẫn còn, nhưng hệ thống kiểm xạ đã bất khiển dụng nên các vũ khí chính mất đi rất nhiều hiệu quả. Nếu các khẩu súng 76.2 ly còn chính xác và bắn nhanh như khi được đài kiểm xạ điều khiển giống như trong hải quân Hoa Kỳ, HQ-4 dưới sự chỉ huy đầy kinh nghiệm của Hạm Trưởng Vũ Hữu San đã bắn hạ dễ dàng các chiến hạm Trung Cộng. Nhưng rất tiếc, vào thời điểm năm 1974 khi Hoa Kỳ đã phủi tay và cuộc chiến tại Việt Nam gần tàn, khả năng tác chiến của HQ-4 đã giảm sút nhiều mặc dù thủy thủ đoàn rất thiện chiến. Một điểm khá bất lợi nữa là HQ-4 ngoài hai khẩu 76.2 ly, không có đại bác 40 ly bắn nhanh. Trong một trận hải chiến khi mục tiêu chỉ các trên dưới một hải lý, một dàn 40 ly bắn nhanh sẽ có lợi thế hơn một khẩu 76.2 ly bắn chậm.

Nhưng dù với những bất lợi nói trên, dưới quyền chỉ huy sáng suốt, kinh nghiệm của Hạm Trưởng Vũ Hữu San cùng sự quả cảm, gan dạ của thủy thủ đoàn, HQ-4 đã xứng đáng mang danh Khu Trục Hạm. Ngay sau khi nhận được lệnh tác xạ vào tàu địch, hai khẩu đại bác 76.2 ly đã chuẩn-bị từ lâu, khai hỏa chính xác trúng ngay tàu địch lúc đó nằm trong khoảng cách 1,600 yards. Chỉ trong vòng vài phút đầu, chiếc Kronstadt 271 là soái hạm của hải đội Trung Cộng đã bị bắn cháy không còn khả năng tác chiến. Có nguồn tin nói rằng chiếc tàu này sau đó phát nổ và đã bị chìm. Nhưng cũng như những chiến hạm đồng đội khác, HQ-4 là một mục tiêu khá lớn cho tàu địch nên cũng bị trúng nhiều vết đạn. Tuy-nhiên các máy móc chính, nhất là hệ thống truyền tin vẫn trong tình trạng khiển dụng tốt. Đặc biệt, Trung Tá San cho biết vì HQ-4 là một chiến hạm khá lớn có nhiều tầng nên được trang bị một hệ thống quạt hút khổng lồ để các tầng bên dưới bớt nóng. Khi tác chiến, một viên đạn địch khi phát nổ đã thổi bay hệ thống quạt hút khổng lồ này. Tuy nhiên, những thiệt hại của HQ-4 được coi là nhẹ so với các chiến hạm bạn khác và vẫn còn khả năng tác chiến.

Trên soái hạm HQ-5, khi lệnh tác chiến được ban hành, các ổ súng nổ dòn dã hướng về tàu địch. Trong lúc tác chiến, Hạm Trưởng, HQ Trung Tá Phạm Trọng Quỳnh, lo việc vận chuyển chiến hạm để vào vị trí tác xạ hữu hiệu nhất cũng như để tránh các vùng san hô, đá ngầm nguy hiểm trong khi Hạm Phó và Sĩ Quan Hải Pháo lo việc chỉ huy tác chiến. Mục tiêu của HQ-5 là chiếc Kronstadt mang số 274 mặc dầu chống trả mãnh liệt nhưng bị hư hại nặng vì trúng nhiều đạn 40 ly và 20 ly nên bị loại ra khỏi vòng chiến. Để dễ bề lẩn tránh, tàu địch phun ra một màn khói ngụy trang khiến HQ-5 khó nhận biết chính xác mục tiêu. Tuy nhiên, bị trúng đạn quá nặng, chiếc Kronstadt này bắt buộc phải ủi vô bờ san hô phía Nam đảo Quang Hòa để tránh bị chìm. Tuy đã loại được đối thủ, nhưng tình trạng tác chiến của HQ-5 cũng không mấy khả quan.

Tới khoảng 10 giờ 50 sáng tức là vào phút thứ 25 của trận chiến, tất cả các ổ súng lớn trên chiến hạm đều bị trở ngại tác xạ không bắn được, ngoại trừ khẩu đại bác 40 ly bên tả hạm do Thượng Sĩ Tài làm trưởng khẩu. Như vậy, nguyên hông phải của chiến hạm không còn trọng pháo để bảo vệ. Nguy hiểm hơn nữa, các chiến hạm còn lại của Trung Cộng tập trung lực lượng nhắm vào HQ-5 như để trả thù cho đồng bọn. Tuy bị bao vây và bắt đầu bị trúng nhiều đạn địch, khẩu đại bác 40 ly độc nhất còn lại phản pháo ác liệt khiến địch phải chùn lại. Trung Tá San cho biết cũng trong lúc đó, các chiến hạm VNCH quan sát thấy có bốn lượng sóng lớn trắng xóa đang tiến tới từ hướng Đông Bắc với vận tốc rất nhanh và có tin các phi tiễn đĩnh loại Komar của địch đang trên đường đến tiếp viện. Trước tình thế bất lợi, vả lại các chiến hạm chính của địch tham chiến cũng đã bị hư hại, Đại Tá Hà Văn Ngạc, SQ/CHCT đã ra lệnh cho các chiến hạm VNCH rời vùng giao tranh để bảo toàn lực lượng.

Khi rời khỏi vùng giao tranh vào khoảng 11 giờ sáng ngày 19/1, hải đội VNCH cũng chia làm hai cánh. HQ-16 vì hoạt động ở khu phía Bắc và đã bị thiệt hại khá nặng có nguy cơ bị chìm nên đã đổi đường ngược lên phía Bắc, hướng về đảo Hoàng Sa rồi sau đó di chuyển về hướng Tây nhắm về Đà Nẵng. Trong khi đó phân đội Nam gồm HQ-4 và HQ-5 hải hành về hướng Đông Nam. Phía Trung Cộng cũng không còn sức để đuổi theo vì tất cả các chiến hạm tham chiến đều đã bị chìm hay lên cạn. Theo Hải Đội Trưởng Hà Văn Ngạc sau này cho biết, phân đội Nam đi về hướng Đông Nam để có thể đến căn cứ Hải Quân Subic Bay yêu cầu Hoa Kỳ sửa chữa nếu cần.

Khoảng ba tiếng đồng hồ sau, vào lúc 2 giờ 15 phút, phân đội Nam gồm HQ-4 và HQ-5 nhận được lệnh của Đề Đốc Trần Văn Chơn, Tư Lệnh HQVNCH lúc đó có mặt tại Đà Nẵng, quay trở lại cố thủ tại Hoàng Sa. Các chiến hạm liền đổi đường về hướng Tây Bắc trở lại vùng đã xảy ra trận hải chiến hồi sáng. khi đã gần tới Hoàng Sa, vào lúc 5 giờ 20 chiều, lệnh cố thủ được hủy bỏ, phân đội Nam được lệnh trở về Đà Nẵng. Về lệnh "cố thủ" này, Trung Tá Vũ Hữu San, Hạm Trưởng Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư HQ-4 đã viết trong bài nói chuyện kỷ niệm 24 năm trận hải chiến Hoàng Sa, đọc tại San José vào ngày 17 tháng 1 năm 1998 nguyên văn như sau:

"Sau Hoàng Sa 24 năm, chúng tôi còn sống và vẫn đi tìm trong mấy chục triệu sách thư viện nhưng cho đến nay, đã không thể nào tìm thấy được cái lý tưởng nào cao xa hơn được biểu lộ qua hình ảnh Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư HQ-4 và Tuần Dương Hạm Trần Bình Trọng HQ-5 tuân hành quân lệnh chuẩn bị lên cạn phơi xác mình. Quân lịnh như núi! Lịnh này đúng hay sai cũng là lệnh! Đến chiều tối, lệnh hải hành rời bỏ Hoàng Sa mới được ban ra và chúng tôi các chiến hạm mang đầy vết thương vẫn còn đang rỉ máu, được về Đà Nẵng để lo mai táng cho các bạn đã hy sinh, đưa đồng đội bị thương vào quân y viện và sửa chữa chiến hạm . . .".

Những lời nói hào hùng đầy khí tiết của Trung Tá San tưởng đã diễn tả quá đủ tinh thần chiến đấu bảo vệ lãnh thổ, vì nước quên mình của các chiến sĩ HQ/VNCH. Mới đây, chúng tôi được hân hạnh phỏng vấn vị cựu TL/HQ/VNCH. Đề Đốc Chơn cho biết về lệnh "quay trở lại Hoàng Sa" như sau: "Vì sau trận hải chiến, hệ thống truyền tin của các chiến hạm không được toàn hảo nên tôi không biết rõ tình hình tại Hoàng Sa do đó đã ra lệnh cho các chiến hạm trở lại để bảo vệ lãnh thổ. Khi hệ thống truyền tin được sửa chữa xong, tôi biết rõ hơn về tình trạng các chiến hạm nên đã ra lệnh trở về Đà Nẵng."

Đến ngày 20 tháng 1, các chiến hạm HQ/VNCH về tới Đà Nẵng. HQ-4 và HQ-5 cập cầu Thống Nhất tại bến thương cảng hối 7 giờ 30 sáng. Riêng Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt HQ-16 được Tuần Dương Hạm Trần Bình Trọng HQ-6 hộ tống cập cầu Tiên Sa thuộc BTL/V1DH vào lúc 10 giờ sáng.


[1] Không có hê-thống radar khiển-xạ, vũ-khí của Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư HQ-4 (2 cây 76.2 ly -3 inch.) lúc đó thật ra chỉ tương-đương vớì Hộ Tống Hạm Nhựt Tảo HQ-10 (ngoài 76.2 ly HQ.10 còn có 2 cây 40 ly Bofors) và thua xa loại Tuần-Dương-Hạm WHEC (với đại bác 127 ly và 4 đại bác 40 ly), cũng như kém hẳn Kronstadt Trung-Cộng (với đại bác 100 ly -3.9 inch.- và 2 đại bác 37 ly).

[2] Loại vũ-khí này lúc đầu như vậy, sau thay-đổi thành 4 khẩu 37 ly gắn trên 2 pháo-tháp. Xin xem hình “Đặc-tính Trục-Lôi-Hạm T 43 của TC”

[3] Riêng Khu Trục Hạm VNCH được trang-bị 76.2 ly -3 inch.

[4] Thơ của Đại-Tá Nguyễn-Viết-Tân CHT/ Sở Phòng-Vệ Duyên-hải (Ngày 20-1-1974), thay mặt các chiến-sĩ đổ-bộ, đã viết: “nghìn năm ghi ơn”, nhờ những quyết-định sáng suốt và kịp thời của Hạm-Trưởng HQ.4 khi điều-động các toán đổ-bộ Biệt-hải và Hải-kích, do đó cứu sinh-mạng người sống, giảm-thiểu sự hy-sinh vô-ích. Thơ này sẽ phổ-biến sau vì sách không còn chỗ.

[5] Trên HQ.4, thủy-thủ-đoàn nhìn qua ống nhòm thấy rõ ràng cả đến những vành mũ vàng choé của các Sĩ-Quan Cao-Cấp Trung-Cộng quá đông trên đài chỉ-huy của Kronstadt. Lời Hạm-Trưởng HQ.4 nói “Vàng nhiều rồi sẽ thành đỏ hết” như là lời tiên-đoán. Chừng một giờ sau, nhiều người trong nhóm này tử-trận.

[6] MSF - Mine Sweeper Fleet 



VIII. TỔNG KẾT THIỆT HẠI ĐÔI BÊN 

1. PHÍA VIỆT NAM CỘNG HÒA

Thiệt hại về phía HQ/VNCH được ghi nhận ở mức trung bình, gồm 1 chiến hạm bị chìm và 3 chiếc khác bị hư hại. Về phần nhân mạng, số tử thương và bị thương tương đối nhẹ.

Ngoài ra, còn một số binh sĩ và nhân viên dân chính bị bắt giữ vào ngày 20/1/74 khi phi cơ và chiến hạm Trung Cộng oanh, pháo kích rồi cho quân đổ bộ lên các đảo. Nhóm tù binh này gồm 14 nhân viên thuộc HQ-4 được đổ bộ lên đảo Cam Tuyền vào khoảng 10 giờ sáng ngày 18/1 và 34 binh sĩ Địa Phương Quân cùng nhân viên khí tượng, trong số này có một nhân viên dân chính Hoa Kỳ tên Gerald Emil Kosh. Những người bị bắt bị đưa về đảo Hải Nam vào ngày 21/1 và sau cùng bì giam tại nhà lao Thu Dung thuộc tỉnh Quảng Châu. Năm thương bệnh binh được trao trả vào ngày 31/1 tại cầu Shumchum là ranh giới giữa Hồng Kông và tỉnh Quảng Đông. Sau 27 ngày bị giam giữ, trước sự đòi hỏi hợp lý quả VNCH và dưới áp lực của giới ngoại giao cũng như hội Hồng Thập Tự quốc tế, Trung Cộng đã phải phóng thích toàn bộ số 43 tù binh còn lại.

Sau đây là chi tiết về những thiệt hại về phía HQ/VNCH: 
a. Hộ Tống Hạm Nhựt Tảo HQ-10
Đây là chiến hạm nhỏ nhất và có hỏa lực yếu nhất trong số các chiến hạm VNCH tham chiến. Ngoài ra, tình trạng kỹ thuật còn không được khả quan khiến HQ-10 lại càng thêm bất lợi. Khởi đầu trận chiến, trong lúc hai chiến hạm Trung Cộng 389 và 396 dồn hỏa lực vào HQ-16 là chiến hạm lớn hơn, HQ-10 đã tận dụng hỏa lực cơ hữu bắn cháy mục tiêu được chỉ định là chiến hạm Trung Cộng mang số 396, sau đó còn bắn trúng đài chỉ huy và hầm máy khiến chiếc 389 bị tê liệt không còn vận chuyển được nữa. Tuy nhiên, HQ-10 cũng bị bắn trúng đài chỉ huy khiến Hạm Trưởng bị tử thương, hệ thống truyền tin bị tê liệt và hầm máy bị cháy. Vì vậy, đã có lúc Hộ Tống Hạm Việt-Nam HQ-10 và Trục-lôi-Hạm Trung-Cộng T-389 trôi nổi không kiểm soát được trên mặt biển, đã đụng vào nhau.

Khi các chiến hạm VNCH rời trận chiến vào khoảng 11 giờ sáng, HQ-10 vẫn còn trôi nổi trong vùng. Khoảng một tiếng đồng hồ sau đó, hai chiến hạm Kronstadt của Trung Cộng mang số 281 và 282 vừa nhập vùng, dùng hải pháo tác xạ dữ dội vào HQ-10 không còn tự vệ được nữa. Mãi tới khoảng 3 giờ chiều, HQ-10 mới bị chìm.

Tài liệu của Trung Cộng nói rõ về trường hợp HQ-10 như sau: "Trong lúc hải chiến ác liệt, tuy Hộ Tống Hạm (HTH) Nhựt Tảo của VNCH bị trọng thương, nhưng Trục-lôi-hạm 389 (T-389) cũng bị chiến hạm VNCH bắn hư hại nặng. Đài chỉ hủy hoàn toàn bị tiêu hủy, thủy thủ đoàn nhiều người chết và bị thương. Tuy nhiên những nhân viên còn lại vẫn không sợ chết, kiên trì giữ vững vị trí chiến đấu. Vì hầm chứa đạn bị bắn trúng thủng một lỗ lớn, một thủy thủ tuy đã bị thương nặng ở bụng và hai đầu gối nhưng vẫn cởi quần áo nhét vào lỗ thủng và tiếp đạn cho tới lúc chết tại chỗ. Hầm máy cũng bị bắn trúng nên bị cháy dữ dội, khiến tàu vô nước bị nghiêng, không còn dưỡng khí khiến cơ khí phó và 5 cơ khí viên tử trận tại chỗ. T-389 và HTH Nhựt Tảo đều bị thương nặng, không tự điều khiển được nên trôi lại gần, có lúc đụng cả vào nhau. Dân quân trên T-389 có lúc đã dùng đại liên và lựu đạn để tấn công HTH Nhựt Tảo vì khoảng cách đôi bên quá gần.

Trong lúc đó, TDH Lý Thường Kiệt ở phía bên ngoài tác xạ dữ dội vào T-389. Tuy bị thương nặng, hầm máy bị cháy có thể phát nổ bất cứ lúc nào, Trục-Lôi-Hạm (TLH) 389 vẫn chống trả mãnh liệt. Vì sợ bị bắn trúng, TDH Lý Thường Kiệt rời vùng hải chiến, vận chuyển ra hướng ngoài biển. Thấy TDH Lý Thường Kiệt bỏ đi, các chiến hạm VNCH Trần Khánh Dư và Trần Bình Trọng cũng rời vùng. Riêng HTH Nhựt Tảo vì bị hư hại nặng chỉ còn trôi trên mặt biển nên bị bỏ lại không còn đủ sức tự vệ. Lúc đó, hai chiến hạm TC tăng viện là Kronstadt 281 và 282 thuộc phân đội chống tàu ngầm 74 do phân đội trưởng Liu Xi Zhong chỉ huy cũng vừa tới vùng vào hồi 11 giờ 49 liền mở cuộc tấn công. HTH 281 tiến gần HTH Nhựt Tảo, tất cả mười họng súng đều khai hỏa vào mục tiêu rõ ràng không còn tự vệ được. Đến 2 giời 52 phút chiều ngày 19 tháng 1, HTH Nhựt Tảo bị chìm tại vị trí chừng hai hải lý rưỡi về phía nam của bãi san hô Antelope."

Một số nhân chứng từ các chiến hạm bạn quan sát còn cho biết chiếc máy chánh duy nhất còn lại có lẽ cũng bị hư hại nên HQ-10 không thể vận chuyển được nữa, do đó chiến hạm đã bị tàu địch bắn chìm. Số nhân viên còn lại gồm 23 người, trong đó có Hạm Phó lúc đó bị trọng thương đã xuống 4 chiếc bè cấp cứu đào thoát. Trong lúc trôi dạt trên biển cả, vị Hạm Phó và một nhân viên khác từ trần nên đã được thủy táng. Sau bốn ngày ba đêm lênh đênh trên đại dương không đồ ăn và nước uống, nhóm thủy thủ gặp nạn được chiếc tàu dầu SKOPIONELLA của công ty Shell trên đường đi từ Hồng Kông đến Singapore vớt tại vị trí các Đà Nẵng chừng 150 hải lý về hướng Đông. 
b. Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt HQ-16
HQ-16 thuộc Phân Đội Bắc cùng với HQ-10 nên cũng bị thiệt hại khá nặng. Trong lúc dùng các khẩu hải pháo 127 ly và 40 ly loại chiếc tàu Trung Cộng mang số 389 ra khỏi vòng chiến, HQ-16 cũng bị trúng đạn. Hầm đạn 127 ly phía trước mũi bị trúng đạn khiến nước tràn vào mỗi khi mũi tàu chúc xuống nên sau đó đã phải cô lập. Một máy điện bị bắn hư và giây điện đứt làm hệ thống điện khiến hầm máy chỗ nào cũng bị điện giật, do đó nhân viên cơ khí và điện khí phải di tản. Nguy hiểm hơn cả là hông tàu ngang hầm máy chánh tả bị thủng một lỗ lớn ngay tầm nước khiến nước biển tràn vào như thác lũ. Chiến hạm mỗi lúc một nghiêng thêm về bên trái và có nguy cơ bị chìm nếu không bịt được lỗ thủng. Sau cùng, nhờ sĩ quan cơ khí trưởng là Đại Úy CK Trần Văn Hiệp điều động nhân viên phòng tai và cơ khí cô lập được hầm máy tả, chiến hạm vẫn tự vận chuyển được dù chỉ còn máy chánh hữu. Vì hầm đạn đã bị cô lập khiến khẩu 127 ly không còn bắn được nữa, ngoài ra chỉ còn một máy và vì tàu bị mất điện hoàn toàn nên hệ truyền tin và tay lái điện cũng bị tê liệt. Vì Các tàu địch lúc đó cũng đã bị cháy hay bị chìm, nên HQ-16 rời vòng chiến, di chuyển về hướng Bắc để giữ an toàn.

Riêng toán nhân viên 15 người thuộc HQ-16 do Hải Quân Trung Úy Lâm Trí Liêm chỉ huy đổ bộ lên đảo Vĩnh-Lạc vào ngày 17-1 đã bị mất liên lạc với chiến hạm sau trận hải chiến nên phải tự rút khỏi đảo bằng xuồng cao su. Sau 10 ngày lênh đênh trên biển cả, những người này đã được ghe đánh cá cứu thoát đưa về Qui Nhơn nhưng có một người bị chết vì kiệt lực, đó là Hạ Sĩ Nhất Quản Kho Nguyễn Văn Duyên. Toán đổ bộ 15 người này sau đó đã được đặc cách thăng một cấp. 
c. Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư HQ-4
Là chiến hạm có thủy-thủ-đoàn thiện-chiến với hai đại bác 76 ly nên HQ-4 tiêu diệt mục tiêu không mấy khó khăn. Theo báo cáo, soái hạm địch là chiếc chiếc Kronstadt 271 đã bị HQ-4 bắn cháy, sau đó phát nổ và chìm ngay từ những phút đầu của cuộc hải chiến. Tuy nhiên, trong hải-chiến tương-đối ngắn ngủi đó, HQ-4 cũng bị trúng nhiều phát đạn của địch quân. Thiệt hại về nhân mạng không đáng kể; thiệt hại vật chất trên chiến hạm được ghi nhận tới gần ngàn vết đạn đủ loại. Tưởng cũng nên nói thêm, vì cấp chỉ huy Trung Cộng và tình-báo Quân-Ủy Trung-Ương của họ lầm tưởng HQ.4 là soái hạm của Hải Đội VNCH nên đã dùng hai chiến hạm TC 271 và 274 toàn lực tấn công ngay từ phút đầu.

Trong số các chiến hạm HQ/VNCH tham chiến, tuy về mặt vỏ tàu bị nặng nhất nhưng về kỹ-thuật, HQ-4 chỉ thiệt hại tương đối nhẹ nhàng nhờ nhân-viên phòng-tai ưu-hạng của chiến-hạm[1]. Hai khẩu trọng pháo 76 ly trở ngại vì không có radar khiển-pháo, vẫn tác xạ đều trong lúc tác chiến. Máy chánh, máy điện và hệ thống truyền tin khiển dụng tốt. HQ-4 sau khi hàn gắn vỏ tàu, coi như vẫn còn đầy đủ khả năng tác chiến. 
d. Tuần Dương Hạm Trần Bình Trọng HQ-5
HQ-5 là nơi HQ Đại Tá Hà Văn Ngạc, SQ/CHCT đặt bộ tham mưu nên được coi là soái hạm. Theo bản báo cáo hậu hành quân, tất cả hỏa lực của HQ-5 tập trung vào chiếc Kronstadt mang số 274. Không bao lâu, mục tiêu bị bốc cháy vì trúng nhiều đạn 40 ly và 20 ly. Tàu địch phải ủi vào bãi san hô sát đảo Quang Hòa để khỏi bị chìm, do đó coi như bị hư hại hoàn toàn. Về phần HQ-5 cũng bị trúng đạn nhiều nơi, các ổ trọng pháo chính 127 ly và 40 ly đôi trước mũi cũng bị trở ngại tác xạ, chỉ còn khẩu 40 ly bên tả hạm xử dụng được. Chính khẩu súng này đã bắn chặn không cho các tàu địch tới gần.

Thiệt hại về nhân mạng trên HQ-5 gồm 1 sĩ quan chết, 3 bị thương; hạ sĩ quan 2 chết 4 bị thương; đoàn viên 9 bị thương. Tổng cộng 3 chết 16 bị thương. Về vật chất, nhiều kho phòng, máy móc và hệ thống giây, ống bị trúng đạn. Lửa bốc cháy cũng như nước tràn vào tại nhiều nơi trên chiến hạm. Nhân viên phòng tai và toán hải kích tăng phái đã xử dụng tối đa phương tiện cơ hữu để cứu thủy và cứa hỏa. Hạm Trưởng đã ra lệnh làm ngập nước hầm đạn 127 ly để tránh đạn phát nổ vì kho điện tử và kho cơ khí bị bốc cháy. Tuy bị hư hại khá trầm trọng nhưng HQ-5 không gặp nguy cơ bị chìm hay bị tiêu hủy vì cơ khí trưởng là Thiếu Tá CK Trần Đắc Nguyền là một sĩ quan nhiều kinh nghiệm đã đắc lực điều động nhân viên dập tắt các đám cháy, bít các lỗ thủng và sửa chữa cá máy móc hư hỏng. Do đó, chỉ sau một thời gian ngắn, HQ-5 đã trở về tình trạng hoạt động gần như bình thường.

2. PHÍA TRUNG CỘNG



Hình Kronstadt 271 và 274, chụp từ HQ.4 trước trận hải-chiến chừng một giờ



Về thiệt hại, tài liệu Trung Cộng cho biết: "Tuy nhiên, chiến thắng nào cũng phải trả giá. Về phía TC, tổng cộng có 18 người tử trận trong số này 1 Hạm Trưởng và 67 người khác bị thương. T-389 bị hư hại nặng, nếu không kịp ủi vào bãi san hô chắc chắn sẽ bị chìm. Ba chiến hạm khác đều bị trúng đạn, thiệt hại trung bình".

Trên thực tế cả 4 chiến hạm Trung Cộng trực tiếp tham chiến đều bị trúng đạn hư hại nặng, hoặc bị chìm hoặc phải ủi bãi san hô để tránh bị chìm. Bằng chứng là HQ-10 tuy nhân viên đã đào thoát hết, chỉ còn là một xác tàu trôi nổi, nhưng các chiến hạm Trung Cộng tham dự trận đánh đã không còn khả năng tác chiến, phải đợi đến 4 tiếng đồng hồ sau, hai chiến hạm tăng viện là Kronstadt 281 và Kronstadt 282 vừa tới mới bắn chìm được chiến hạm VNCH. Về phần nhân mạng, tài liệu của Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sĩ (chưa được phối kiểm) cho biết cả 4 Hạm Trưởng các chiến hạm TC gồm 3 Đại Tá và 1 Trung Tá đều bị tử thương. Ngoài ra, BTL mặt trận gồm 1 Đô Đốc, 4 Đại tá, 6 Trung Tá, 2 Thiếu Tá và 7 sĩ quan cấp úy cũng bị tử thương. Chúng tôi rất dè dặt khi loan tin này. Các chiến hạm TC đều thuộc loại nhỏ, thủy thủ đoàn không quá trăm người, nên Hạm Trưởng mang cấp bậc Đại Tá là điều hãn hữu.
2.                               21-09-2010, 07:28 AM#7
may4phuong is offline
Thành viên chính thức   
Tham gia ngày
May 2010
Bài viết
1,870
Hải Chiến Hoàng Sa
Theo tài liệu Trung Cộng
Trần Ðỗ Cẩm

MỞ ĐẦU 

Trận hải chiến giữa Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa (HQ/VNCH) và Hải Quân Trung Cộng (HQ/TC) tại quần đảo Hoàng Sa xảy ra vào ngày 19 tháng 1 năm 1974, tình đến nay đã được tròn 30 năm. Ngay sau đó, phát ngôn viên quân sự VNCH đã công bố một số chi tiết liên quan tới trận hải chiến. Báo chí tại Miền Nam Việt Nam cũng viết nhiều bài tường thuật dựa theo nguồn tin chính thức. Riêng Bộ Tư Lệnh Hải Quân VNCH đã dành riêng một số báo Lướt Sóng viết về biến cố quan trọng này.

Gần đây tại hải ngoại, một số các nhân chứng trực tiếp tham dự cũng đã viết nhiều bài khá trung thực và giá trị. Tuy nhiên đa số những bài viết kể trên đều căn cứ vào tài liệu và quan điểm của VNCH. Vì cần phù hợp với tình hình chính trị và đường lối uyển chuyển trên lãnh vực ngoại giao vào thời điểm 1974, một số chi tiết quan trọng đã không được tiết lộ chính xác. Điển hình, phát ngôn viên quân sự VNCH trong một cuộc họp báo chính thức cho biết các chiến hạm TC đã nổ súng trước nên phía VNCH phải bắn trả để tự vệ. Thật ra, nhiều nhân chứng có mặt tại chỗ đã xác nhận trong những bài viết sau này, chính các chiến hạm VNCH đã nổ súng trước để đánh đuổi bọn xâm lăng. "Giặc đến nhà thì phải đánh", hành động đầy chính nghĩa, hợp lý và hợp pháp này nếu chưa thích hợp để công bố vào năm 1974, thì bây giờ rất cần làm sáng tỏ để chứng minh người Việt Nam, nhất là HQ/VNCH dù phải đối đầu với quân xâm lược mạnh hơn gấp bội, vẫn không ngần ngại nổ súng để bảo vệ bờ cõi.

Tuy nhiên, dù đã có nhiều bài viết về trận hải chiến Hoàng Sa, thiết tưởng việc tường thuật trung thực vẫn không thể đầy đủ nếu thiếu phần tài liệu của "phía bên kia" tức là TC. Vào thời điểm 1974, vì có sự cách biệt quá lớn về ý-thức-hệ giữa hai khối Tự Do và Cộng Sản nên những tin tức trao đổi giữa đôi bên rất giới hạn. Hầu như những tin tức từ phía Cộng Sản đều bị chế độ độc tài đảng trị cố tình ngăn chặn bởi bức "màn sắt", "màn tre" nên khó lọt ra ngoài. Thảng hoặc, nếu có chi tiết nào cố tình được "Đảng và Nhà Nước" công bố thì cũng chỉ thuộc loại tuyên truyền quá lố như "dân quân TC bò tới gần các chiến hạm VNCH ném lựu đạn vào lỗ châu mai", vì vậy chẳng có một giá trị nào trong việc truy nhận sự thật. Rất may mắn, trong vòng mấy năm gần đây, cao trào Tự Do Dân Chủ đã khiến các nước khối Cộng hoặc tự động bị tan rã như Nga Sô và một số quốc gia Đông Âu. TC và VN cũng bắt buộc phải "đổi mới" để sống còn. Dân chúng TC nhờ thế, đỡ bị "bịt mồm, bóp miệng", có thể nói lên phần nào sự thật.

Lại nữa, phương tiện truyền thông qua mạng lưới điện tử toàn cầu đã khiến việc trao đổi tin tức trở nên dễ dàng hơn. Vả lại, trận hải chiến Hoàng Sa xảy ra đã khá lâu, khía cạnh tuyên truyền không còn được đặt nặng bằng nhu cầu tìm hiểu sự thật. Vì vậy trong khoảng thời gian gần đây, chúng tôi đã may mắn tìm được một số các tài liệu TC liên quan tới trận hải chiến do chính những nhân chứng tham dự thuật lại. Nhìn chung, tuy vẫn còn nặng mang hơi hướm "Mao Chỉ Tịch", nhưng nếu gạn bỏ khía cạnh tuyên truyền như đề cao dân quân quá đáng, che dấu thiệt hại, dành phần thắng về mình v.v…, chúng ta vẫn có thể tìm được một số chi tiết khá giá trị. Khi tổng hợp những chi tiết này với những tài liệu đã được công bố từ trước, chúng ta có thể nhìn được khá gần sự thật.

Do đó, mục tiêu của bài này không phải tường thuật lại những chi tiết liên quan tới trận hải chiến Hoàng Sa là điều các tác giả khác đã viết khá chi tiết và đầy đủ. Chúng tôi chỉ muốn bổ túc một số chi tiết về trận hải chiến Hoàng-Sa dựa theo các tài liệu của TC mới sưu tầm được để tìm hiểu một số quyết định quan trọng của họ liên quan tới trận hải chiến như: kế hoạch lấn chiếm Hoàng Sa, các chiến hạm tham chiến, diễn-tiến trận hải chiến, hệ-thống chỉ-đạo, chiến lược chiến thuật, trường hợp hy sinh bi hùng của Hộ Tống Hạm (HTH) Nhựt Tảo… Ngoài ra chúng ta cũng có thể suy đoán được khá chính xác về những thiệt hại của phía TC.

Để dễ theo dõi, tưởng cũng cần nhấn mạnh đa số những điểm chính nêu lên trong bài này đều là những ghi nhận và quan điểm căn cứ vào tài liệu và nhãn quan của TC. Phụ thêm vào đó là một số nhận định riêng của người viết.

Khi đề cập tới những chiến hạm VNCH, phía TC thường dùng tên hiệu như Tuần Dương Hạm (TDH) Lý Thường Kiệt, Khu Trục Hạm (KTH) Trần Khánh Dư v.v…, trong khi các bài viết của chúng ta lại hay sử-dụng chỉ số như HQ-16, HQ-4 thay vì tên hiệu như họ. Đây là sự khác biệt khá quan trọng. Vì bài viết này căn cứ vào tài liệu TC nên chúng tôi cũng xử dụng tên hiệu của các chiến hạm VNCH để phần tường thuật được nhất quán.

KẾ HOẠCH LẤN CHIẾM HOÀNG SA 

Sau khi cưỡng chiếm nhóm đảo An Vĩnh (Amphitrite Group) vào ngày 21 tháng 12 năm 1956, đến năm 1974, dùng chính sách ngoại giao "bóng bàn" bang giao được với Hoa Kỳ, TC đã chuẩn bị khá kỹ càng kế hoạch bành trướng tại Biển Đông. Ngoài tầm quan trọng về mặt quân sự, với dân số quá đông trên 1 tỷ người, TC cần tận dụng các tài nguyên về ngư sản và khoáng sản tại vùng biển chưa được khai thác này để sống còn. Người Mỹ lúc đó đã rút quân khỏi Việt Nam và cũng đã có kế hoạch triệt thoái khỏi toàn vùng Đông Nam Á bằng cách đóng cửa các cơ sở quân sự quan trọng tại Phi Luật Tân như căn cứ Không Quân Clark Air Base, căn cứ Hải Quân Subic Bay. Lo ngại rằng sự vắng mặt của mình sẽ tạo cơ hội tốt cho Nga Sô bành trướng nên Hoa Kỳ cũng muốn có một lực lượng tương đối mạnh khả dĩ có thể thay thế họ ngăn chặn và cầm chân lực lượng đối thủ chiến tranh lạnh hàng đầu. TC đang có tham vọng bành trướng tại Biển Đông, còn Hoa Kỳ muốn ngăn chặn ảnh hưởng của Nga Sô tại vùng này nên chúng ta không ngạc nhiên khi "kẻ cắp bà già" bắt tay nhau, Hoa Kỳ đã ngầm thỏa thuận để TC ngang nhiên lấn chiếm quần đảo Hoàng Sa của VNCH và sau này tiến xa hơn tới tận Trường Sa, cách lãnh thổ TC cả ngàn cây số.

Để mở đầu kế hoạch lấn chiếm, trên mặt ngoại giao, Bộ Ngoại Giao TC đột nhiên lên tiếng đòi chủ quyền tại Hoàng Sa, đồng thời lén lút cho ngư thuyền võ trang chở quân lính giả dạng dân đánh cá đổ bộ lên một số đảo do VNCH kiểm soát từ lâu trong vùng Hoàng Sa. Dự đoán thế nào phía VNCH cũng phản ứng mạnh mẽ, chính phủ TC từ các giới chức cao cấp nhất như Chủ Tịch Mao Trạch Đông đến Đặng Tiểu Bình, Châu Ân Lai và toàn bộ Quân Ủy Trung Ương đã đồng thanh quyết định sẽ dùng biện pháp quân sự để đánh chiếm Hoàng Sa từ tay VNCH nếu cần. Khởi đầu, họ đổ quân lên các đảo, đồng thời cho tàu bè và chiến hạm khiêu khích lực lượng VNCH. Nếu các chiến hạm VNCH lặng lẽ cúi đầu bỏ đi như lời một viên chứa Hoa Kỳ tại Việt Nam đe dọa "nếu các chiến hạm Việt Nam nổ súng tại Hoàng Sa, HQ/VNCH sẽ bị xoá tên ngay", TC sẽ ngang nhiên chiếm Hoàng Sa theo chiến thuật tiệm tiến "tầm ăn dâu" lấy từng đảo một như họ làm tại Trường Sa sau này.

Ngược lại, nếu VNCH tham chiến, dù các HQ/VNCH có chiến thắng đánh chìm tất cả các chiến hạm TC tại chỗ nhưng vẫn không thể giữ được Hoàng Sa vì lực lượng tăng viện TC gồm nhiều chiến hạm tối tân và có cả phi cơ tham chiến sẽ kéo tới đánh chìm các chiến hạm VNCH dễ dàng. Vì vậy, khi TDH Lý Thường Kiệt được phái ra Hoàng Sa vào ngày 15 tháng 1 năm 1974 để thám sát, chính phủ TC liền lập tức xử dụng phương tiện quân sự. Tài liệu TC tóm lược kế hoạch lấn chiếm này như sau:

"Lo ngại VNCH điên cuồng khiêu khích để chiếm Hoàng Sa, quân trên đảo báo cáo về Trung Ương và lập tức được trình lên thượng cấp. Các đồng chí Zhou Enlai và Phó Chủ Tịch nhà nước Ye Jianying đệ trình một kế hoạch phản công bằng quân sự và được chủ tịch Mao Zedong mau chóng chấp thuận. Kế hoạch này bao gồm việc tăng cường chiến hạm tuần tiễu và dùng biện pháp quân sự để giữ đảo. Đồng chí Đặng Tiểu Bình cùng giới lãnh đạo quân sự thảo kế hoạch đánh chiến hạm địch, tái chiếm các đảo bị VNCH xâm lấn, đồng thời kiểm soát hoàn toàn vùng Hoàng Sa." 

Như vậy, chúng ta thấy rõ sách lược bành trướng tại Biển Đông đã được TC chuẩn bị kỹ càng, khởi đầu bằng việc gây hấn tiến chiếm Hoàng Sa. Đây là một quốc sách quan trọng đã được hoạch định từ lâu nên trận hải chiến tại Hoàng Sa đã được cố ý dự trù, tiên liệu, chuẩn bị và thiết kế chu đáo. Về phía VNCH, trong lúc phải đối đầu trong trận chiến một mất một còn với Việt Cộng trong nội địa, việc tham chiến tại Hoàng Sa chỉ là một sự tình cờ, cũng như TDH Lý Thường Kiệt HQ-16 ra Hoàng Sa với nhiệm vụ chính chở phái đoàn Công Binh thám sát thiết lập phi trường, tình cờ phát hiện ngư thuyền và quân TC trong vùng. Sau đó, VNCH mới hối hả phái các chiến hạm khác ra tăng cường.

Đến đây tưởng cũng nên ghi nhận một điểm son về Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu lúc đó đã đích thân thăm viếng BTL/HQ/V1DH để duyệt xét tình hình và ra lệnh bằng thủ bút cho phép Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, TL/HQ/V1DH được toàn quyền hành động, kể cả việc xử dụng võ lực để bảo vệ Hoàng Sa. Phó Đề Đốc Thoại đôi lúc cũng cảm thấy đơn độc, đã thi hành đúng đắn chỉ thị của thượng cấp khi ra lệnh "Khai Hỏa". Trong lúc chiến trường quốc nội gay go sôi động, ngoài biển TC đe dọa lấn chiếm Hoàng Sa; hành động "quyết chiến" đối đầu với kẻ thù truyền kiếp để bảo vệ lãnh thổ của vị nguyên thủ VNCH phải được coi là quyết định lịch sử, có thể đem so sánh với thời "Hội Nghị Diên Hồng". Sau đó, TL/HQ/V1DH và các chiến sĩ HQ/VNCH nhất nhất tuân-hành quân lệnh do vị Tổng Tư Lệnh ban-hành, chiến đấu rất anh dũng tại Hoàng Sa theo đúng truyền thống chống ngoại xâm của tiền nhân Việt-tộc.

CÁC CHIẾN HẠM THAM CHIẾN 

Khi các chiến hạm VNCH được phái tới Hoàng Sa, phía TC cũng tăng cường lực lượng hải quân của họ. Lúc đầu chỉ có 2 ngư thuyền võ trang 402 và 407, sau đó thêm nhiều chiến hạm nhập vùng.Về tổng số chiến hạm tham chiến, tài liệu của TC ghi rất rõ ràng. Họ cho biết như sau:

"Ngày 17 tháng 1, Quân Ủy Trung Ương ra lệnh Hạm Đội Nam Hải lập tức phái chiến hạm tuần tiễu tại Hoàng Sa, đồng thời ra lệnh Quân Khu Hải Nam gửi quân lính theo tàu ra giữ đảo. Theo lệnh Quân Ủy Trung Ương, quân khu Quảng Châu ra lệnh Hạm Đôi Nam Hải phái hai Trục Lôi Hạm 396 và 389 (ghi chú của tác giả: tạm gọi tắt là T-396 và T-389) thuộc Phân Đội Trục Lôi 10 căn cứ tại Quảng Châu và hai Hộ Tống Hạm loại Kronstad 271 và 274 (ghi chú của tác giả: tạm gọi tắt là K-271 và K-274) thuộc Phân Đội chống Tiềm Thủy Đĩnh (TTĐ) 73 căn cứ tại Yulin, lên đường ra Hoàng Sa vào các ngày 17 và 18 để tuần tiễu. Ngoài ra, Quân Khu Hải Nam còn phái 4 Đại Đội Bộ Binh để chiếm đóng các đảo Vĩnh Lạc, Cam Tuyền và Quang Hòa. Thêm vào đó, Căn Cứ Hải Quân Quảng Châu còn phái 2 chiến hạm K-281 và K-282 thuộc Phân Đội Chống TTĐ 74 tới Hoàng Sa sau đó làm lực thành phần tiếp ứng. Toàn thể lực lượng được đặt dưới quyền chỉ huy của Tư Lệnh Phó Hạm Đội Nam hải tên Wie Ming Sen lúc đó có mặt tại can Cứ Hải Quân Yulin nằm vế phía Nam đảo Hải Nam. Bộ Tư Lệnh Hành Quân được đặt trên soái hạm K-271 thuộc Phân Đội 73. Về không yểm, quân khu Quảng Châu ra lệnh Phi Đoàn 22 thuộc Hạm Đội Nam Hải cử 2 phi cơ túc trực bao vùng, đồng thời yêu cầu Không Quân thuộc Quảng Châu sẵn sàng yểm trợ. Nếu nhìn vào lực lượng Hải, Không và Lục quân được phái ra Hoàng Sa, mọi người đều thấy chúng ta chỉ đưa ra một lực lượng quân sự rất hạn chế với mục đích bảo vệ Hoàng Sa chứ không phải tiêu diệt hạm đội địch." 

Khi phân đội K-271 và K-274 trên chở một Trung Đội Bộ Binh tới vùng Hoàng Sa cũng là lúc hai KTH Trần Khánh Dư và TDH Lý Thường Kiệt của VNCH đang săn đuổi và đe dọa các ngư thuyền 402 (Nam Ngư 1) và 407 (Nam Ngư 2) của TC. Các chiến hạm TC lập tức phản ứng bằng cách gửi tín hiệu yêu cầu chiến hạm VNCH rời vùng. Tối 17 tháng 1, TDH Trần Bình Trọng (HQ-5) và HTH Nhựt Tảo (HQ-10) rời quân cảng Đà Nẵng và tới Hoàng Sa vào buổi chiều ngày 18 tháng 1. Phía TC dùng chiến thuật "khiêu khích", cho các ngư thuyền bám sát chiến hạm VNCH để cản đường. Về những vận chuyển cắt đường và những hành động khiêu khích trên biển, tài liệu TC tường thuật như sau:

"Sáng ngày 18 tháng 1, sau khi tuần tiễu vùng Hoàng Sa, các chiến hạm VNCH một lần nữa lại có những hành động thù nghịch, tiến gần ngư thuyền 407 và dùng loa phóng thanh đuổi ngư thuyền này ra khỏi vùng. Tuy phải đối diện với tàu lớn và đại pháo, thuyền trưởng ngư thuyền 422 vẫn không sợ hãi trả lời: “Đây là lãnh hải Trung Quốc, các anh phải rời xa ngay”. Phía VNCH có một sĩ quan đe dọa: “Nếu các anh không lập tức rời vùng sẽ bị đánh chìm”. Khi thấy ngư thuyền 407 vẫn không bỏ đi, chiến hạm Trần Khánh Dư trở nên giận dữ, dùng hết tốc lực đụng vào khiến phòng lái ngư thuyền 407 bị thủng một lỗ lớn. Lúc này toán chiến hạm K-271 cũng nhập vùng, lại gửi tín hiệu yêu cầu các chiến hạm VNCH rời khỏi vùng biển Hoàng Sa. Tới đêm 18 tháng 1, tình hình rất căng thẳng, đôi bên canh chừng lẫn nhau nhưng không có đụng độ." 

Phía TC đã tả lại khá rõ ràng biến cố KTH Trần Khánh Dư cố ý đụng vào ngư thuyền 407 khiến đài chỉ-huy bị phá-hủy, phòng lái bị thủng một lỗ lớn, nhưng chi tiết "dùng hết tốc lực" có vẻ hơi quá đáng. Theo HQ Trung Tá Vũ Hữu San, Hạm Trưởng KTH Trần Khánh Dư, cho biết lúc đó , tình hình rất căng thẳng, các ngư thuyền TC cố ý vận chuyển chận đường các chiến hạm VNCH, ngăn cản không cho lại gần hải-đảo để bảo vệ quân TC trên đó. Thoạt đầu HQ.4 đã dùng mọi biện pháp "hòa bình" đúng theo luật đi biển yêu cầu họ rời khỏi lãnh hải VNCH nhưng các ngư thuyền này vẫn không bỏ đi.

Muốn tìm hiểu thêm về quyết định cố ý “đụng tàu” có tính toán này, chúng ta cần biết rõ nhiệm vụ của Hạm-Trưởng HQ.4 lúc bấy giờ. Theo đúng lệnh Hành-Quân, cho tới ngày 18 tháng 1, Hạm Trưởng HQ-4 vẫn còn kiêm nhiệm chức vụ Chỉ-Huy-Trưởng Hành Quân bảo-vệ quần-đảo Hoàng-Sa. Để chu toàn trọng trách, chiến hạm VNCH phải đổ quân để lấy lại các đảo đã bị quân TC chiếm đóng bất hợp pháp. Vì tàu TC đang tuần tiễu quanh các đảo có thể liều lĩnh đụng chìm hay bắn vào các xuồng đổ bộ nên trước hết phải tìm cách cô lập hóa lực lượng yểm trợ này để bảo đảm an toàn cho toán đổ bộ. Thượng cấp lại đã ra lệnh “chiếm lại các đảo bằng biện pháp hòa bình” trước khi xử dụng vũ lực. Do đó Hạm Trưởng HQ-4 chỉ có thể biểu lộ quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ bằng cách ủi vào ngư thuyền TC như một hành động cảnh cáo có tính toán buộc chúng phải rời vùng, trong lúc hải pháo sẵn sàng yểm trợ cho toán đổ quân nếu TC nổ súng trước.

Vì vậy, Hạm Trưởng San mới ra lệnh dùng mũi tàu "ủi nhẹ" vào ngư thuyền 407 thấp hơn để cảnh cáo và cũng tượng trưng việc "đẩy" ngư thuyền TC ra khỏi hải phận VNCH. Nếu bị KTH Trần Khánh Dư cao lớn hết tốc lực" đụng vào, chắc ngư thuyền 407 đã về với hà bá, đâu còn cơ hội để kể lại chuyện này. Theo lời các thủy thủ trên các chiến hạm VN, các thủy thủ trên tàu TC đều có những cử chỉ khiêu khích thô tục, chửi bới khiến nhân viên VN rất tức giận, nhưng vì tuân lệnh "chạm trán hòa bình" nên buộc phải tự chế. Việc KTH Trần Khánh Dư đụng vào ngư thuyền 407 đã khiến các thủy thủ VN "lên tinh thần", hăng hái như đã trả được thù 1

Về biến cố "đụng tàu" này, tác giả Đào Dân hiện diện trên TDH Lý Thường Kiệt được chứng kiến tận mắt, thuật lại như sau:

"Bốn chiếc tàu, 2 lớn ở ngoài, 2 nhỏ ở giữa vẫn thả trôi bình yên để mặc cho con người đấu khẩu. Có lẽ không còn kiên nhẫn được nữa, HQ 4 nổ máy đâm thẳng ngang hông tàu địch, đẩy nó ra khơi. vì vận tốc chậm, có lẽ khoảng 2 máy tiến 1, nên không có thiệt hại nào cho bên địch, nếu có, có lẽ bát đũa nồi nêu cơm nước bị đổ bể tùm lum trong phòng ăn và nhà bếp. Trước thái độ quyết liệt của HQ 4, tàu Trung Quốc đành nhượng bộ, mở máy, từ từ tăng tốc độ chạy về phía Nam của 2 đảo Duy Mộng và Quang Hòa, để lại chiến trường một vùng nước bọt trắng xóa. Chúng tôi toàn thắng mà không tốn một viên đạn (chỉ tốn một cái húc của Trung Tá Vũ Hữu San). Đến đây người viết cần phải ngừng lại một chút vừa để hoan nghênh Hạm-Trưởng San …" 

Riêng đối với Hạm Trưởng San, chuyện đụng tàu trên biển này chắc cũng đã gây ra không ít suy-tư, vì theo công pháp quốc tế, chiến hạm hay thương thuyền của một quốc gia được coi như lãnh thổ của quốc gia đó. Như trước đây, Hoa Kỳ đã buộc Nhật Bản ký văn bản đầu hàng vô điều kiện chấm dứt thế chiến II tại Thái Bình Dương trên Thiết Giáp Hạm Missouri bỏ neo trong vịnh Tokyo, một hành động tượng trưng coi như Nhật Bản đã phải ký hòa ước trên đất Hoa Kỳ. Làm Hạm Trưởng, việc để chiến hạm mắc cạn hay đụng vào tàu khác là điều tối kỵ thường đưa tới việc mất chức. Hạm Trưởng San đã cố ý đụng tàu TC, chẳng khác nào tự ý "xâm lăng" Trung Quốc có thể đưa tới những hậu quả nghiêm trọng. Trong trường-hợp có đối-thoại hay dàn-xếp thương-thuyết Việt-Hoa, Ông rất có thể trở thành “vật hy-sinh” và bị cả hai quốc-gia kết tội là kẻ gây nên chiến-tranh.

Thiết tưởng đây là một hành động can đảm tuy tự chế, chẳng khác danh tướng Trần Quốc Toản đời Trần đã vì tức giận giặc Tàu xâm lăng đã bóp nát quả cam trong tay lúc nào không biết!

Một chi tiết khác khá quan trọng là TC cũng gửi 2 tiềm thủy đĩnh tham dự chiến dịch Hoàng Sa, nhưng sau khi trận chiến đã kết thúc. Tác giả Lu Qi Minh trong bài viết nhan đề "Tiềm Thủy Đĩnh TC Đầu Tiên Tham Dư Chiến Dịch" cho biết như sau:

"Vì lo ngại Hoa Kỳ và VNCH không chịu rút lui dù đã bị thất bại, nên Hạm Đội TC vẫn phải gửi chiến hạm tăng cường lực lượng tại Hoàng Sa. Lúc đó trời bão, biển động mạnh nên các chiến hạm không rời bến được, do đó hai tiềm thủy đĩnh được lệnh công tác tại Hoàng Sa. Đây là lần đầu tiên tiềm thủy đĩnh dược dùng vào công tác chiến đấu nên phải có sự chấp thuận đặc biệt của chủ tịch Mao Trạch Đông. Hai tiềm thủy đĩnh dùng trong công tác mang số hiệu 282 và 289." 

Tóm lại về lực lượng tham chiến, phía TC có 2 ngư thuyền võ trang mang số 402 và 407, hai TLH mang số 389 và 396, hai Kronstadt mang số 271 và 274 và hai Kronstadt 281 và 282 tăng viện. Trong số này, chỉ có 4 chiến hạm T-389, T-396, K-271 và K-274 trực tiếp tham chiến. Còn K-281 và K-282 tới Hoàng Sa vào hồi 11 giờ 49 ngày 19 tháng 1, lúc đó trận hải chiến đã kết thúc (vào hồi 11 giờ). Chính hai chiến hạm mới đến này đã bắn chìm HTH Nhựt Tảo. Hai tiềm thủy đĩnh mang số 282 và 289 cũng tới Hoàng Sa sau đó để tăng cường tuần tiễu và đề phòng lực lượng VNCH trở lại tái chiếm quần đảo.

TRẬN HẢI CHIẾN 

Tài liệu TC nói về trận hải chiến được tóm lược như sau:

"Rạng sáng ngày 19 tháng 1, các chiến hạm VNCH chia thành hai phân đội. TDH Lý Thường Kiệt và HTH Nhựt Tảo hoạt động trong vùng lòng chảo, từ phía Bắc gần đảo Hoàng Sa tiến về hướng Nam gần đảo Quang Hòa. Trong khi đó, KTH Trần Khánh Dư và TDH Trần Bình Trọng bọc từ phía ngoài biển cũng tiến về đảo Quang Hòa từ hướng Tây Nam. Nếu nhìn vào tầm cỡ và trọng tấn, phía VNCH gồm 3 chiến hạm lớn, trọng tấn khoảng 1,770 tấn mỗi chiếc và một chiến hạm nhỏ trọng tấn khoảng 650 tấn, như vậy tổng cộng trọng tấn phía VNCH khoảng 6,000 tấn, trong khi phía TC có hai chiến hạm loại Kronstad trọng tấn 570 tấn và hai Trục Lôi Hạm (TLH) loại T-43 trọng tấn 300 tấn, tổng cộng khoảng 1760 tấn. Về vũ khí, phía TC cỡ súng lớn nhất là 85 ly đôi trong khi VNCH có súng cỡ 127 ly. Như vậy về hỏa lực, phía VNCH cũng trội trội hơn. Các chiến hạm VNCH với hải pháo lớn chiếm vị trí bên ngoài lợi thế hơn, trong khi các chiến hạm TC ở phía trong gần các đảo.

Trước ý đồ gây hấn của VNCH, theo chỉ thị của Quân Ủy Trung Ương, quân khu Quảng Châu đã đặt các đơn vị trực thuộc trong tình trạng báo động khẩn cấp, đồng thời ra lệnh cho các chiến hạm tại Hoàng Sa sẵn sáng đối phó nếu bị tấn công. Các chiến hạm TC được lệnh phối trí tại vùng đảo Quang Hòa để bám sát các chiến hạm VNCH. Trước các họng đại pháo của chiến hạm VNCH, các chiến hạm TC tuy nhỏ hơn nhưng không hề nao núng.

Hai TLH T-396 và T-389 có nhiệm vụ bám sát TDH Lý Thường Kiệt. Mặc dù nhỏ hơn với trọng tấn chỉ bằng một phần tư, T-396 vẫn không giảm tốc độ khi cản đường. TDH Lý Thường Kiệt ỷ vào súng lớn và vỏ tàu dầy hơn, chẳng những không đổi hướng mà còn dùng mũi đụng vào T-389 khiến sườn tàu và pháo tháp bị hư hại, sau đó còn cắt ngang đội hình TC. Các chiến hạm VNCH còn tiến về phía đảo Quang Hòa thả xuống 4 xuồng cao su trên chở khoảng 40 quân VNCH để đổ bộ. Tuy lần đầu tiên đụng độ, nhưng dân quân TC vẫn nổ súng khiến VNCH bị chết 1, bị thương 3 khiến toán đổ bộ VNCH phải rút lui. Khi thấy cuộc đổ bộ bị thất bại, phía VNCH đổi chiến thuật, lợi dụng ưu thế về hỏa lực và vị trí thuận lợi để tấn công các chiến hạm TC.

Trước hỏa lực hùng hậu của phía VNCH, các chiến hạm TC lần lượt bị trúng đạn. Phía TC lập tức phản công. Các HTH K-271 và K-274 tấn công các KTH Trần Khánh Dư và TDH Trần Bình Trong của VNCH, trong khi các TLH T-396 và T-389 đối đầu TDH Lý Thường Kiệt và HTH Nhựt Tảo. Các chiến hạm VNCH khai triển đội hình cố giữ khoảng các lớn hơn hầu tận dụng hải pháo tầm xa, nhưng các chiến hạm TC có vận tốc cao hơn nên khoảng cách đôi bên mỗi lúc càng giảm, có lúc gần như sát vào nhau. Vì vậy, các chiến hạm TC tuy cỡ súng nhỏ, nhưng có nhịp bắn cao hơn nên chiếm được lợi thế. Sau mười ba phút giao tranh, hàng ngũ chiến hạm VNCH đâm ra rối loạn.

KTH Trần Khánh Dư là Soái Hạm của Hải Đội VNCH nên bị hai HTH K-271 và K-274 dồn nỗ lực vây đánh. Mặc dầu KTH Trần Khánh Dư đã tận dụng hỏa lực dữ dội để mong làm chủ chiến trường, nhưng vẫn bị yếu thế vì hỏa lực TC tập trung vào các giàn hải pháo chính và bị trúng đạn hư hại nhiều nơi khác, khói đen tỏa ra nhiều nơi, vì vậy phải rời vòng chiến. K-274 không bỏ lỡ cơ hội, theo sát KHT Trần Khánh Dư. Thấy vậy TDH Trần Bình Trọng vội chận đánh K-274 ngay bên ngang hông để cứu nguy cho Soái Hạm. Bị hỏa lực của hai chiến hạm VNCH tấn công cả hai phía trước và sau, K-274 bị trúng đạn nhiều nơi, tay lái bị bất khiển dụng phải dùng hệ thống lái tay, nhưng vẫn chạy hết tốc lực, cuối cùng chiếm lại được thế thượng phong. Tuy được lợi thế trong lúc cận chiến, nhưng cũng dễ bị trúng đạn đại pháo của các chiến hạm VNCH. K-274 bị một viên đạn bắn trúng đài chỉ huy khiến nhiều người chết và bị thương nên hệ thống truyền tin bị rối loạn nên phải dùng thủ lệnh. Tuy vậy, chiến hạm vẫn phản công khiến KTH Trần Khánh Dư bị trúng đạn tại nhiều chỗ, hiệu kỳ bị bắn đứt bay xuống biển.

Xa hơn về phía Bắc, các TLH T-396 và T-389 nghênh cản TDH Lý Thường Kiệt và HTH Nhựt Tảo. Lúc đầu, chiến hạm TC tập trung hỏa lực vào mục tiêu lớn hơn là TDH Lý Thường Kiệt, nhưng bị HTH Nhựt Tảo chận bắn dữ dội. Các chiến hạm TC chuyển xạ nhắm vào HTH Nhựt Tảo khiến kho đạn phát nổ, hầm máy bị cháy không còn vận chuyển được nữa. TDH Lý Thường Kiệt cũng bị trúng đạn nên rời vòng chiến. Thấy vậy, các chiến hạm VNCH Trần Khánh Dư và Trần Bình Trọng cũng hối hả rời vùng." 


Phần tường thuật của TC về cuộc hải chiến, tuy có đôi chút trung thực, nhưng nặng hơn về mặt tuyên truyền. KTH Trần Khánh Dư đã không rời vùng dù bị hai chiến hạm TC vây đánh gây thiệt hại, có tới 912 vết đạn trên vỏ tàu. KTH Trần Khánh Dư là loại chiến-hạm tấn-công, kiến-trúc khoẻ nhất trong hải-đội với 4 phòng hầm máy chánh và nhiều phòng kín nước khác, sức chịu-đựng rất cao. Khi tàu Trung-Cộng bắt đầu rút về hướng Tây, rơi vào đúng ngay tầm bắn hữu-hiệu của hải-pháo 76.2 ly, các chiến hạm TC, đặc biệt K-274 bị trúng thêm mấy trái đạn lớn nữa, đến độ tê liệt.

CHIẾN LƯỢC CHIẾN THUẬT 

Ðể đối đầu với hai phân đội chiến hạm VNCH, phía TC cũng chia các chiến hạm thành hai phân đội. Các HTH K-271 và K-274 phối trí tại vùng Tây Nam đảo Quang Hòa để đối đầu với các KTH Trần Khánh Dư và TDH Trần Bình Trọng, trong khi các TLH T-389 và T-386 chiếm vị trí xa hơn về phía Bắc để ngăn chặn các TDH Lý Thường Kiệt và HTH Nhựt Tảo. Nhìn chung, các chiến hạm VNCH chiếm vị trí hình cánh cung bên ngoài đảo Quang Hòa, trong khi các chiến hạm TC cũng dàn hình cánh cung đối đầu, nhưng nằm bên trong, gần đảo hơn. Các chiến hạm TC tuy nhỏ, nhưng có vận tốc cao và nhịp bắn nhanh hơn nên đã xử dụng chiến thuật "cận chiến". Tài liệu TC mô tả như sau:

"Chiếm được lợi thế vì phối trí ở vòng ngoài và lợi dụng hải pháo có thể bắn xa hơn2 các chiến hạm VNCH khai triển đội hình, gia tăng khoảng cách. Các chiến hạm TC nhỏ và hỏa lực yếu hơn lại ở vào vị thế bên trong bất lợi nên phải thu hẹp chiến trường bằng cách mở hết tốc lực tiến về phía chiến hạm địch nhiều khi như cập vào nhau nên cỡ súng tuy nhỏ nhưng bắn nhanh nên các loạt đạn đều trúng mục tiêu."

Trong lúc cận chiến, các chiến hạm TC cũng "Tuân hành chiến thuật và lời dạy của Mao Chủ Tịch “Dồn sức mạnh để tiêu diệt bộ phận đầu não địch”, các chiến hạm 271 và 274 tập trung hỏa lực vào KTH Trần Khánh Dư là soái hạm địch, trong lúc các TLH 396 và 389 hướng mọi họng súng vào TDH Lý Thường Kiệt. Do đó, hai chiến hạm VNCH bị thiệt hại nặng nề." 


Ðến đây, chúng ta thấy rõ cấp chỉ huy TC đã sai lầm khi xác quyết "KTH Trần Khánh Dư là soái hạm địch" nên đã tập trung hỏa lực quyết tiêu diệt chiến hạm này. Thực tế, chúng ta đều biết soái hạm của hải đội VNCH là TDH Trần Bình Trọng. Vì sự nhận định không chính xác nói trên nên lúc khởi đầu trận chiến, các chiến hạm TC đã bám sát "soái hạm" Trần Khánh Dư và "tập trung hỏa tiêu diệt các giàn hải pháo chính và thượng tầng kiến trúc khiến hệ thống truyền tin bị hư hại ."

Vì bị hai chiến hạm TC dồn nỗ lực chặn đánh nên KTH Trần Khánh Dư bị trúng đạn khá nặng bên tả hạm. Theo báo cáo chính thức của BTL/Hành Quân Biển, tổng cộng KTH Trần Khánh Dư đếm được 37 lỗ đạn đường kính 4 tấc hay lớn hơn và 44 lỗ đạn khác nhỏ hơn 4 tấc. Giàn radar phòng-không bị suy-giảm năng-lực phát-thâu và radar hải hành tạm thời bất khiển dụng trong vòng hai giờ sau đó. Ðổi lại, soái hạm K-271 của TC cũng bị trúng đạn tại đài chỉ huy gây thiệt hại nặng nề về nhân mạng. Theo tài liệu chưa được phối kiểm của Trần Ðại Sỹ, Tư Lệnh mặt trận và toàn bộ tham mưu của TC bị tử thương. K-274 còn lại coi như không còn khả năng tác chiến.

TRƯỜNG HỢP HTH NHỰT TẢO (HQ-10)

Tài liệu TC cho biết:

"Xa hơn về hướng Bắc, thừa lúc các TLH T-396 và T-389 dồn nỗ lực tấn công TDH Lý Thường Kiệt, HTH Nhựt Tảo tương đối rảnh rang liền bắn dữ dội vào hai chiến hạm TC. Bị tấn công ác liệt, hai chiến hạm TC chuyển xạ, tập trung hỏa lực nhắm vào HTH Nhựt Tảo khiến hầm đạn bị phát nổ. T-389 liền bám sát và tác xạ dữ dội vào chiến hạm đã bị thương này, không để chạy thoát. Tưởng cũng nên nói T-389 vừa được sửa chữa xong tại thủy xưởng ngày hôm trước thì đêm sau đã nhận được ra Hoàng Sa nên chưa đủ thì giờ để thử máy đường trường cũng như bắn thử hải pháo. Vì vậy, trong lúc hải chiến ác liệt, tuy HTH Nhựt Tảo của VNCH bị trọng thương, nhưng T-389 cũng bị chiến hạm VNCH bắn hư hại nặng. Đài chỉ huy hoàn toàn bị tiêu hủy, thủy thủ đoàn nhiều người chết và bị thương. Tuy nhiên những nhân viên còn lại vẫn không sợ chết, kiên trì giữ vững vị trí chiến đấu. Vì hầm chứa đạn bị bắn trúng thủng một lỗ lớn, một thủy thủ tuy đã bị thương nặng ở bụng và hai đầu gối nhưng vẫn cởi quần áo nhét vào lỗ thủng và tiếp đạn cho tới lúc chết tại chỗ. Hầm máy cũng bị bắn trúng nên bị cháy dữ dội, khiến tàu vô nước bị nghiêng, không còn dưỡng khí khiến cơ khí phó và 5 cơ khí viên tử trận tại chỗ. T-389 và HTH Nhựt Tảo đều bị thương nặng, không tự điều khiển được nên trôi lại gần, có lúc đụng cả vào nhau. Dân quân trên T-389 có lúc đã dùng đại liên và lựu đạn để tấn công HTH Nhựt Tảo vì khoảng cách đôi bên quá gần.

Trong lúc đó, TDH Lý Thường Kiệt ở phía bên ngoài tác xạ dữ dội vào T-389. Tuy bị thương nặng, hầm máy bị cháy có thể phát nổ bất cứ lúc nào, TLH 389 vẫn chống trả dữ dội. Vì sợ bị bắn trúng, TDH Lý Thường Kiệt rời vùng hải chiến, vận chuyển ra hướng ngoài biển. Thấy TDH Lý Thường Kiệt bỏ đi, các chiến hạm VNCH Trần Khánh Dư và Trần Bình Trọng cũng rời vùng. Riêng HTH Nhựt Tảo vì bị hư hại nặng chỉ còn trôi trên mặt biển nên bị bỏ lại không còn đủ sức tự vệ. Lúc đó, hai chiến hạm TC tăng viện là HTH 281 và 282 thuộc phân đội chống tàu ngầm 74 do phân đội trưởng Liu Xi Zhong chỉ huy cũng vừa tới vùng vào hồi 11 giờ 49 liền mở cuộc tấn công. HTH 281 tiến gần HTH Nhựt Tảo, tất cả mười họng súng đều khai hỏa vào mục tiêu rõ ràng không còn tự vệ được. Đến 2 giời 52 phút chiều ngày 19 tháng 1, HTH Nhựt Tảo bị chìm tại vị trí chừng hai hải lý rưỡi về phía nam của bãi san hô Antelope." 


HTH Nhựt Tảo lên đường ra Hoàng Sa cùng với TDH Trần Bình Trọng vào tối 17 tháng 1. Theo lời kể lại của Hải Ðội Trưởng Hà Văn Ngạc trong bài "Trận Hải Chiến Lịch Sử Hoàng Sa "HTH HQ-10 Nhựt Tảo được chỉ định xung vào Hải Ðoàn Ðặc Nhiệm, với lý do chính là chiếc HTH này đang tuần dương ngay khu vực cửa khẩu Ðà Nẵng nên giảm bớt thời gian di chuyển, chiến hạm chỉ có một máy chánh khiển dụng mà thôi." Như vậy, HTH Nhựt Tảo không những là chiến hạm nhỏ, có hỏa lực yếu nhất trong Hải Ðội Ðặc Nhiệm mà tình trạng kỹ thuật cũng kém khả quan, chỉ còn một máy chánh.

Trong phúc trình "Diễn Tiến Hành Quân Hoàng Sa" ngày 21 tháng 2 năm 1974 của TDH Trần Bình Trọng cũng ghi rõ "Ngày 18-01-1974 lúc 0315H (ghi chú của người viết: 3 giờ 12 phút sáng), chiến hạm đế điểm hẹn với HQ.10 tại vị trí 083 độ đèn Tiên Sa 090 (ghi chú của người viết: hướng đông của hải đăng Tiên Sa, cách 9 hải lý). Hồi 0327H vì tình trạng kỹ thuật của HQ.10 kém và để đúng giờ hẹn tại Hoàng Sa theo như đã dự trù, chiến hạm đươc lệnh của Sĩ Quan Chỉ Huy Chiến Thuật (Ðại Tá Hà Văn Ngạc, Chỉ Huy Trưởng Hải Ðội 3) cho tăng máy, tách khỏi đội hình với HQ.10, trưc chỉ đảo Cam Tuyền."

Trong một trận hải chiến, ngoài hỏa lực hải pháo, việc vận chuyển mau chóng vào vị trí thích hợp là yếu tố vô cùng quan trọng. Tình trạng kỹ thuật kém "chỉ còn một máy" của HTH Nhựt Tảo gây khó khăn trong việc vận chuyển có lẽ đã là nguyên nhân chính khiến chiến hạm này bị đánh chìm. Chúng ta tự hỏi nếu HTH Nhựt Tảo còn đủ hai máy chánh, dù bị bắn thiệt hại còn một máy vẫn có thể tự vận chuyển được, biết đâu có thể tới vùng an toàn, vì lúc đó các chiến hạm TC đều đã bị hư hại nặng, không còn khả năng truy kích.

Tuy là chiến hạm yếu nhất, nhưng HTH Nhựt Tảo đã chiến đấu hăng hái và dũng cảm nhất. Khi thấy hai TLH T-389 và T-396 dồn nỗ lực tấn công TDH Lý Thường Kiệt, HTH Nhựt Tảo lập tức can thiệp, dùng hải pháo tác xạ chính xác chiến hạm TC khiến T-389 bị trúng đạn vào đài chỉ huy, Hạm Trưởng tử thương, phòng máy bị cháy. T-389 cũng bị hư hại nặng, trôi nổi trên mặt biển tương tự như HTH Nhựt Tảo, có lúc hai đối thủ đụng vào nhau như Trung Úy Nguyễn Ðông Mai thuộc HTH Nhựt Tảo diễn tả trong bài viết "Lần Ðào Thoát Tại Hoàng Sa: "Rồi chừng 15 phút sau, một tiếng va chạm mạnh khiến chúng tôi té nhào trên sàn tàu. Tôi chợt nghĩ đến chuyện tàu lên cạn vì vì vùng này có nhiều san hô. Sau này khi đào thoát tôi mới biết HQ.10 đâm vào tả hạm chiếc 396".

Tài liệu TC cũng xác nhận thêm "Nếu T-389 không dạt vào một bãi san hô, chắc chắn cũng sẽ bị chìm". Như vậy HTH Nhựt Tảo tuy bị chìm, nhưng đối thủ cũng bị thiệt hại tương tự, coi như một đổi một. 

Trận hải chiến khởi đầu lúc 10 giờ 23 phút, khoảng nửa giờ sau đó các chiến hạm VNCH rời vùng, chỉ còn lại HTH Nhựt Tảo bị hư hại nặng trôi nổi trên mặt biển, nhân viên đã xuống bè đào thoát, không còn ai trên tàu. Về những giây phút cuối của HTH Nhựt Tảo, tài liệu TC ghi rõ: "Tới 11 giờ 49 phút, hai HTH K-281 và K-282 do Phân Ðoàn Trưởng Liu Xi Zhong chỉ huy từ căn cứ hải quân Shantou tăng viện đến vùng Hoàng Sa. K-281 tập trung hỏa lực bắn vào xác HTH Nhựt Tảo. Mãi đến 14 giờ 52 phút ngày 19 tháng 1, HTH Nhựt Tảo mới bị chìm tại vị tri Nam bãi san hô Antelope, khoảng cách chừng 2.5 hải lý." 

Sau này một số bài viết cho rằng HTH Nhựt Tảo bị trúng hỏa tiễn TC vào đài chỉ huy khiến Hạm Trưởng hy sinh. Tuy nhiên, các chiến hạm TC tham chiến cũng không được trang bị hỏa tiễn hải - hải và tài liệu TC cũng nói rõ không có Phi Tiễn Ðĩnh (PTÐ) Komar tại Hoàng Sa. Dĩ nhiên, chúng ta không hoàn toàn tin tưởng vào lời nói của họ, nhưng có thể suy đoán tìm câu trả lời hợp lý.

Trước hết, PTÐ Komar trang bị hỏa tiễn hải - hải Styx là loại Ai Cập đã dùng để bắn chìm Khu Trục Hạm Eilat của Do Thái vào tháng 10 năm 1967 gần cảng Port Said. Nếu hỏa tiễn Styx có thể đánh chìm một chiến hạm lớn nhất và cũng là soái hạm của HQ Do Thái thì đối với HTH Nhựt Tảo là chiến hạm nhỏ hơn, bị trúng hỏa tiễn Styx chắc không trôi nổi trên mặt biển, mãi mấy tiếng đồng hồ sau mới bị chiến hạm tăng viện của TC bắn chìm.

Ngoài ra, nếu có hỏa tiễn, theo đúng sách lược "đánh vào chỗ mạnh nhất của Mao Trạch Ðông", chắc chắn TC sẽ nhằm vào chiến hạm VNCH lớn và quan trọng, như "soái hạm" Trần Khánh Dư hoặc các TDH, hơn là HTH Nhựt Tảo nhỏ. Hơn nữa, mỗi Phi Tiễn Ðĩnh Komar được trang bị 2 hỏa tiễn Styx, nếu tham chiến có lẽ sẽ bắn cả 2 hỏa tiễn vào các chiến hạm VNCH, gây thiệt hại nhiều hơn, thay vì chỉ bắn HTH Nhựt Tảo. Về mặt chiến thuật, hỏa tiễn cũng như pháo binh, chỉ hiệu quả khi mục tiêu được xác định rõ ràng, chính xác. Trong trận hải chiến Hoàng Sa, chiến hạm đôi bên đều trong thế "cận chiến" trộn lẫn vào nhau, việc xử dụng hỏa tiễn có thể gây thiệt hại cho chính lực lượng mình. Vì những lý do trên, cộng thêm lời xác nhận về phía TC, chúng tôi nghĩ rằng TC đã không có hỏa tiễn hải - hải trong trận hải chiến Hoàng Sa. Rất có thể, bộ binh theo tàu để đổ bộ xử dụng một số hỏa tiễn “cầm tay” mang theo hoặc bất cứ vũ khí nào khác khi khoảng cách đôi bên quá gần.

THIỆT HẠI 

Về phần thiệt hại, tài liệu TC cho biết: "Tuy nhiên, chiến thắng nào cũng phải trả giá. Về phía TC, tổng cộng có 18 người tử trận trong số này 1 Hạm Trưởng và 67 người khác bị thương. T-389 bị hư hại nặng, nếu không kịp ủi vào bãi san hô chắc chắn sẽ bị chìm. Ba chiến hạm khác đều bị trúng đạn, thiệt hại trung bình". 

Theo tài liệu của Yên Tử Cư Sĩ Trần Ðại Sĩ (chưa thấy Trung-Cộng phản-đối) cho biết cả 4 Hạm Trưởng các chiến hạm TC gồm 3 Ðại Tá và 1 Trung Tá đều bị tử thương. Ngoài ra, BTL mặt trận gồm 1 Ðô Ðốc, 4 Ðại Tá, 6 Trung Tá, 2 Thiếu Tá và 7 sĩ quan cấp úy cũng bị tử thương. Chúng tôi rất dè dặt khi loan tin này, vì tác giả Trần Ðại Sĩ không cung cấp rõ ràng xuất sứ của nguồn tin trên. Hơn nữa, các chiến hạm TC đều thuộc loại nhỏ, thủy thủ đoàn không quá trăm người, nên Hạm Trưởng mang cấp bậc Ðại Tá là điều hãn hữu.

Nếu còn một số nghi vấn về thiệt hại nhân mạng, chúng ta có nhiều bằng cớ khá xác đáng về mặt các chiến hạm TC. Trận hải chiến kết thúc vào khoảng 11 giờ sáng ngày 19 tháng 1 năm 1974 sau chừng 30 phút giao tranh khi ba chiến hạm VNCH rời vùng, chỉ còn lại 4 chiến hạm TC và HTH Nhựt Tảo bị hư hại không tự vận chuyển được, các nhân viên đã xuống bè đào thoát. Nếu chưa bị chìm hoặc lên cạn hết, chắc chắn chiến hạm TC sẽ lại gần HTH Nhựt Tảo, bắt sống những người trên bè đào thoát và đánh chìm đối thủ. Nhưng thực tế cho thấy không một chiến hạm TC nào ngăn chận được các bè đào thoát và phải chờ hơn 3 tiếng đồng hồ sau, lực lượng tăng viện vừa tới gồm các K-281 va K-282 mới bắn chìm HTH Nhựt Tảo. Ðiều này cho thấy cả 4 chiến hạm TC trực tiếp tham chiến hoặc đã bị chìm, hoặc ủi bãi san hô hay hư hại nặng, không còn vận chuyển được nữa.

Qua lời tường thuật của TC về trường hợp các chiến hạm của họ bị trúng đạn hư hại ra sao, gặp những khó khăn nào, cộng với bằng chứng chỉ còn 2 chiến hạm tăng viện hoạt động sau trận hải chiến, chúng ta có thể khá chắc chắn tìm ra sự thật. Ðó là cả 4 chiến hạm TC trực tiếp tham chiến đều bị bắn hư hại nặng, nếu không chìm hay lên cạn cũng sẽ bị phế thải.

KẾT LUẬN 

Trận hải chiến tại Quần đảo Hoàng Sa vào ngày 19 tháng 1 năm 1974 đã trở thành lịch sử. Việc thành bại, hơn thua không còn được đặt nặng so với nhu cầu tìm hiểu sự thật và vinh danh các chiến sĩ HQ/VNCH tham dự trận đánh bảo vệ quê cha đất tổ, đã chết hay còn sống. Dù phải đối đầu với kẻ thù mạnh hơn nhiều lần, nhưng các chiến sĩ HQ/VNCH đã tận dụng mọi khả năng, phương tiện hiện có và nhất là tinh thần chiến đấu, truyền thống hào hùng ngang nhiên bắn vào tàu địch, khiến đối phương cũng phải kiêng sợ và thán phục. Các yếu tố "Thời, Thế và Cơ" cần thiết cho chiến thắng đều không nằm trong tay Hải Ðội VNCH. Giả sử chúng ta có đánh chìm hết các chiến hạm TC tại Hoàng Sa, thu được thành quả tuyệt đối về mặt chiến thuật, nhưng cũng sẽ phải rời bỏ vùng hải đảo thân yêu này để bảo toàn lực lượng, vì dù có vận dụng hết khả năng cũng khó bề đương cự với Hải Quân TC.

Ðể kết thúc, chúng tôi mạn phép tác giả Ngô Minh Hằng, mượn bài thơ rất cảm động của nữ sĩ để vinh danh các chiến sĩ Hoàng Sa, đồng thời bày tỏ kỳ vọng "Sẽ Có Một Ngày…"

Sẽ Có Một Ngày…
(Kính dâng hương hồn các chiến sĩ Hải Quân VNCH đã hy sinh trong trận hải chiến Hoàng Sa)

Việt Nam xưa, Ðức Thánh Trần
Bạch Ðằng cưỡi ngọn sóng thần tuốt gươm
Giặc Mông Cổ tìm đường tháo chạy
Tướng như quân hết thảy rụng rời
Tàn binh cọc nhọn thây phơi
Một phen thủy chiến muôn đời sử xanh (1287)
Mộng xâm lấn tranh giành bờ cõi
Vẫn âm mưu dẫn lối quân Tàu
Sáu trăm tám bảy năm sau (1974)
Hoàng Sa máu lại đỏ ngầu biển Ðông
Trận hải chiến hào hùng, khốc liệt
Với kẻ thù truyền kiếp Trung Hoa
Ðây, trang chiến sử Hoàng Sa
Chỉ huy Hải đội, họ Hà điều binh (1)
Bốn chiến hạm hải trình tham chiến (2)
Những người con của biển kiên cường
Trong vòng lửa đạn đau thương
Lưu danh muôn thuở tấm gương anh hùng
Và chiến đấu vô cùng dũng liệt
Dù địch quân ứng chiến đông hơn
Ðạn bay súng nổ từng cơn
Bốn tàu Trung Cộng chiến trường lâm nguy
Cái bị pháo chìm đi mất dấu
Cái nước theo phía hậu tuôn vào
Ðịch quân hoảng hốt xôn xao
Và quân ta cũng bước vào khó khăn
Gương chiến đấu Bạch Ðằng bỗng hiện
Sáng như sao trên phiến linh hồn
Biển xanh đỏ máu oan hờn
Chiến hạm Nhật Tảo trong cơn nguy nàn (3)
Ðã anh dũng chặn làn sóng địch
Ðể đoàn quân rời đích an toàn
Lòng tàu nước ngập, máu loang
Nhưng lòng thủy thủ hiên ngang trên tàu
Ngay cả lúc chìm sâu đáy biển
Vẫn một niềm tận hiến, hy sinh
Trong lòng biển mẹ mông mênh
Trái tim bất khuất đau tình quê hương!
Sẽ một ngày trùng dương sóng nổi
Về Hoàng Sa rửa mối hận này
Chủ quyền Hoàng đảo trong tay
Xanh reo ngọn sóng, vàng bay sắc cờ
Sẽ một ngày cõi bờ dân Việt
Thoát qua hồi nạn kiếp đau thương
Có anh đứng giữa đại dương
Hát mừng bốn cõi quê hương thanh bình 


Ngô Minh Hằng


(1). Hải Quân Ðại Tá Hà Văn Ngạc, Chỉ Huy Trưởng Hải Ðội VNCH trong trận hải chiến Hoàng Sa.

(2). Bốn chiến hạm HQVNCH tham chiến trong trận Hoàng Sa gồm:
- Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt (HQ-16) do HQ Trung Tá Lê Văn Thự (Khóa 10 SQHQ/Nha Trang) làm Hạm Trưởng.
- Tuần Dương Hạm Trần Bình Trọng (HQ-5) do HQ Trung Tá Phạm Trọng Quỳnh (Khóa 11 SQHQ/Nha Trang) làm Hạm Trưởng. Ðây là Soái Hạm. Ðại Tá Hà Văn Ngạc ở trên chiến hạm này chỉ huy trận đánh.
- Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư (HQ-4) do HQ Trung Tá Vũ Hữu San (Khóa 11 SQHQ/Nha Trang) làm Hạm Trưởng.
- Hộ Tống Hạm Nhật Tảo (HQ-10) do HQ Thiếu/Tá Ngụy Văn Thà (Khóa 12 SQHQ/Nha Trang) làm Hạm Trưởng.

(3). Hạm Trưởng HQ-10, Th/T Ngụy Văn Thà bị thương, quyết ở lại trên tàu. Ba đoàn viên tên Lê Văn Tây, Ðinh Hoàng Mai và Phạm Anh Dũng đã hy sinh ở lại bắn chặn tàu Trung Cộng để đồng đội an toàn rời khỏi chiến hạm. HQ Thiếu Tá Ngụy Văn Thà và ba đoàn viên đã can đảm trong truyền thốn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét