Tìm kiếm Blog này

Thứ Hai, 16 tháng 3, 2015

TH: Kế hoạch hành quân & Lực lượng yểm trợ và dự bị?

căn cứ quân sự tiên sa hải quân việt nam cộng hòa ở đà nẳng
Căn Cứ  Hải-Quân Đà Nẵng (Vịnh Tiên Sa). Đây là nơi đặt BTL./HQ/V1DH. năm 1974.


Ông Đại Tá Phạm Mạnh Khuê, Tham Mưu Trưởng/ Hành Quân Biển viết trong Hải Sử Tuyển Tập có một Lệnh hành quân kèm theo kế hoạch rất bài bản, đó là: Ngày 17/1/74 Bộ Tư Lệnh / Hải Quân ban hành "Lệnh Hành Quân số 042 / HQ / HhQ / LĐ / B". Kế hoạch được chia làm 2 giai đoạn, có Lực lượng tham dự có 2 thành phần: Tham chiến và Yểm Trợ, Trừ Bị. Rồi "Hành quân Trần Hưng Đạo 47" cũng từ Hải Sử Tuyển Tập, nghe cái tên có vẻ ngô nghê, cái gì "... Hành quân"?
Nào là Bộ Tư lệnh HQ theo dõi tin tức sát sao, chỉ đạo, ra lệnh kịp thời cho Hải đội hải chiến Hoàng Sa. Kết luận: nhờ vào yếu tố “chủ động khai hoả” nên Hải Quân Việt Nam đã tạo được thành tích vẻ vang.
"Tài liệu hải sử" này được TS Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Quốc gia lấy làm nguyên liệu, xào trên báo GDVN, còn gửi đăng vài báo khác.

Người duy nhất có biết sĩ quan hải hành Bùi Ngọc Nở, HQ-5
Chiều ngày 17 tháng 1 năm 1974, ngay sau đó Hạm Trưởng HQ 5, HQ Trung Tá Phạm Trọng Quỳnh lên BTL/HQ Vùng 1 Zuyên Hải họp hành quân. Họp xong Hạm Trưởng Quỳnh mang về một lệnh hành quân, mang tên Hành Quân Trần Hưng Đạo 47, tôi đã đọc lệnh hành quân này.

Hạm trưởng Vũ Hữu San
Khu-Trục-Hạm Trần-Khánh-Dư HQ-4 tham-chiến tại Hoàng-Sa tháng 1-1974. Chúng tôi biệt-phái Vùng 1 Duyên-Hải, chưa bao giờ "biết cái vụ Hành-Quân Biển" này".

Giả như nếu có "Lệnh Hành Quân số 042" và "Hành quân Trần Hưng Đạo 47" quan trọng như thế thì tại sao hai người chỉ huy trực tiếp, cao nhất là Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, Tư lệnh Vùng I Duyên Hải và Đại Tá Hà Văn Ngạc, Hải đội trưởng, cũng như các Hạm trưởng không ai nhắc đến trong tường thuật của mình.
Tai nghe mắt thấy là
Vào khoảng 11:00 giờ tối ngày 18, một lệnh hành-quân, tôi không còn nhớ được xuất-xứ, có thể là của Vùng I duyên-hải, được chuyển mã-hóa trên băng-tần SSB (single side band) (Ghi chú của Trần Ðỗ Cẩm: đây là công điện Mật/Khẩn chiến dịch mang số 50.356, nhóm ngày giờ 180020H/01/74 do BTL/HQ/V1ZH gửi với tiêu đề: Lệnh Hành Quân Hoàng Sa 1)

Hà Văn Ngạc,
Khi khu-trục-hạm HQ4 ra khỏi vùng chiến, lại không bị chiếc Kronstad 274 truy-kích hoặc tác-xạ đuổi theo, ngược lại chiếc này của địch có phần rảnh tay hơn để tấn-công Tuần-dương-hạm HQ5 vào phía hữu-hạm hầu giảm-bớt hỏa-lực của chiến-hạm ta như để cứu vãn chiếc 271 đang bị tê-liệt. Vào giờ này thì tin-tức từ Bộ-Tư-lệnh Hải-quân tại Sàigòn do chính Tham-mưu-phó hành-quân cho hay là một phi-đội khu-trục-cơ F5 đã cất-cánh để yểm-trợ cho Hải-đoàn đặc-nhiệm. Do sự liên-lạc từ trước với Bộ-Tư-lệnh Sư-đoàn I Không-quân tại Ðà-nẵng, tôi hiểu là phi-cơ F5 chỉ có thể yểm-trợ trong vòng 5 tới 15 phút mà thôi vì khoảng-cách từ Ðà-nẵng tới Hoàng-Sa quá xa so với nhiên-liệu dự-trữ. Tôi vẫn tin rằng loan tin việc phi-cơ cất-cánh, Bô-Tư-lệnh Hải-quân đã cho rằng tin này có thể làm cho tôi vững-tâm chiến-đấu. Một điều nữa là từ trước tới giờ phút đó tôi chưa được thấy có cuộc thao-dượt hỗn-hợp nào giữa Không-quân và Hải-quân nên tôi rất lo-âu về sự nhận-dạng của phi-công để phân-biệt giũa chiến-hạm của Hải-quân Việt-Nam và chiến-hạm Trung-cộng, nhất là lúc có mây mù thấp, nên phi-cơ có thể gây tác-xạ nhầm mục-tiêu. Máy VRC 46 trong Trung-tâm chiến-báo phải chuyển sang tần-số không-hải và đích thân tôi dùng danh-hiệu để bắt liên-lạc với phi-cơ. Một viên đạn xuyên-nổ trúng ngay Trung-tâm chiến-báo từ hữu-hạm, sát gần ngay nơi tôi đứng, làm trung-tâm bị phát-hỏa. Các nhân-viên trong trung-tâm còn mải núp sau bàn hải-đồ thì tôi nhanh tay với một bình cứu-hỏa gần chỗ tôi đứng dập tắt ngay ngọn lửa. Tôi bị té ngã vì vấp chân vào bàn hải-đồ, bàn chân trái bị đau mất vài ngày. Tôi vẫn vẫn tiếp-tục liên-lạc với phi-cơ nhưng sau chừng 5 tới 10 phút vẫn không thấy đáp-ứng nên tôi phải ngưng và chuyển tần-số về liên-lạc với các chiến-hạm khác vì cuộc giao-tranh đã đến độ khốc-liệt hơn. Sau phút này thì Tuần-dương-hạm HQ5 bị trúng nhiều đạn làm sĩ-quan trưởng-khẩu 127 ly tử-thương và hải-pháo bị bất-khiển-dụng vì phần điện điều-khiển pháo-tháp tê-liệt, và máy siêu-tần-sớ SSB không còn liên-lạc được vì giây trời bị sập rớt xuống sàn tầu, hiệu-kỳ hải-dội bị rách nát phần đuôi.

19/1, Thiếu tá Phạm Văn Hồng, Trưởng toán công binh
Khi tôi liên lạc bằng máy Motorola của Đài Khí Tượng trên đảo về Đà Nẵng, tôi được bên Hải Quân cho biết, Thiếu tá Hồng cứ yên trí, sẽ có máy bay ra yểm trợ. Vì tin lời hứa đó, tôi nghĩ trong lòng rằng không bao giờ tôi đầu hàng, giả sử nếu cùng lắm bên Không quân ta phải thả bom trên đầu, tôi cũng chịu vì đó là chuyện bình thường của quân đội.
Sau khi về đến Việt Nam, tôi gặp Trung tá Lâm (khóa 10 Võ Bị Đàlạt), Trung tá Lâm nói với tôi: “Không quân của mình đã chuẩn bị sẵn sàng từ phi trường Biên Hòa bay ra Đà Nẵng, rồi từ Đà Nẵng bay ra Hoàng Sa oanh kích, và các phi công cũng chấp nhận sẽ chơi theo kiểu Nhật, khi phi cơ bay ra Hoàng Sa thì đủ nhiên liệu nhưng lúc về thì không, do đó các anh phi công sẽ bỏ phi cơ và nhảy dù xuống biển, tàu của Hải quân ta ứng trực sẵn sàng để tiếp cứu. Mọi việc đã chuẩn bị đâu vào đấy, nhưng phút chót lệnh này bị hủy bỏ!”
Tác giả Thẩm Sơn Hà đã dẫn chứng khá rõ:
    “…không có những cuộc oanh kích nào để yểm trợ cho quân TC hay VNCH. Vì khoảng cách giữa 5 đảo của nhóm Nguyệt Thiềm tương đối ngắn, G. Kosh có thể phát hiện được sự yểm trợ của loại phi cơ có khả năng tác chiến cao ở bất cứ nơi nào trong nhóm Nguyệt Thiềm…”
Bài viết của Bí Thư Thắng ‘Tôi đã đến đó’, không thấy đề cập đến sự xuất hiện của phi cơ: “chúng tôi toàn thể 14 thủy thủ thuộc Khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ4, trú đóng đảo Cam Tuyền (Robert) trong những giờ phút cuối cùng với hỏa lực khủng khiếp từ hạm đội địch cũng như lực lượng hùng hậu của địch đổ bộ...”
Trần Thế Đức trong Hoàng Sa qua những nhân chứng diễn tả rõ hơn: “...tàu TC bắn vào Hoàng Sa (Pattle). Anh em ra rừng và các đống phân nằm bố trí. Có cả tiếng máy bay phản lực rít lên nữa…)
Với kinh nghiệm và khả năng ghi nhận của G. Kosh, thêm vào dẫn chứng từ hai bài viết nêu trên, ta có thể kết luận là trong biến cố Hoàng Sa, Trung Cộng không xử dụng phi cơ trực tiếp thi hành công tác oanh tạc và tác xạ để yểm trợ cho lực lượng Hải Quân và Bộ Binh, tuy nhiên họ đã chuẩn bị sẵn để xử dụng chúng khi cần cũng như đã xử dụng một số phi cơ vào công tác thám sát và biểu dương lực lượng để uy hiếp tinh thần các chiến sĩ VNCH.
Về phía VNCH, nhân chứng thẩm quyền nhất là Thiếu Tá Nguyễn Văn Hồng trưởng toán Công Binh đã có mặt trên đảo Hoàng Sa và đã bị Trung Cộng bắt làm tù binh trong ngày 20-1-1974. Ông đã xác nhận trong lần tiếp xúc tại tư gia ông vào năm 2005 là phi cơ Trung Cộng không có dội bom đảo Cam Tuyền và Hoàng Sa trong ngày 20-1-1974.

TS Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Quốc gia viết trên báo GDVN

Ngày 17 tháng 1 BTL Hải quân ra Lệnh hành quân số 42 cho BTL Hải quân Vùng 1 Duyên hải thi hành. Phối hợp hành quân, Tư lệnh Sư đoàn 1 Không quân cùng Bộ Tham mưu luôn làm việc bên cạnh BTL Hải quân Vùng 1 Duyên hải, đồng thời BTL Quân đoàn 1- Quân khu 1 cử một Trung tá tham dự. Kế hoạch hành quân chia làm hai giai đoạn:
Giai đoạn 1, tái chiếm các đảo thuộc nhóm Lưỡi Liềm đã bị quân TQ chiếm và cắm cờ. Các đảo này theo thứ tự từ trái sang phải gồm: Quang Ảnh (Money), Hữu Nhật (Robert), Quang Hòa (Duncan), Duy Mộng (Drummond).
Giai đoạn 2, sau khi giai đoạn 1 kết thúc, tuần tiễu và rải quân bảo vệ các đảo còn lại, trên mỗi đảo sẽ có một nửa tiểu đội chốt giữ.
Lực lượng tham dự cuộc hành quân này gồm 4 tàu chiến: 1 tàu trục HQ4 (Trần Khánh Dư), 2 tuần dương hạm là HQ5 (Trần Bình Trọng), HQ16 (Lý Thường Kiệt), 1 tàu hộ tống HQ10 (Nhật Tảo). Binh lực tham gia có 2 toán biệt hải gồm 31 người do Sở phòng vệ Duyên hải tăng cường, 4 toán hải kích gồm 60 người do Liên đội người nhái tăng cường.
Lực lượng yểm trợ và dự bị gồm 1 đại đội quân địa phương và 4 máy bay trực thăng do BTL Quân đoàn 1- Quân khu 1 tăng cường, hai tàu yểm trợ (HQ 800 và HQ 801), 1 tàu hộ tống HQ11 và 3 tuần duyên đĩnh (VPB) HQ 709, 711, 723. Tư lệnh Hải quân VNCH chỉ huy tổng quát chiến dịch. Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải chỉ huy trực tiếp.
....
Tàu HQ 800 đến Đà Nẵng ngày 17.1 chở theo 43 nhân viên hải kích của Liên đội người nhái.

Tại Đà Nẵng, lúc 21giờ ngày 18.1, HQ11 và 3 VPB (HQ 709, 711, 723) khởi hành tiến về quần đảo Hoàng Sa chở thêm 91 quân địa phương, 15 hải kích, 1 y sĩ, 2 y tá và Chỉ huy phó Sở phòng vệ Duyên  hải.

.....
Chiều ngày 19.1, các lực lượng hải quân VNCH đang neo tại phía tây tây nam Quang Ảnh nhận được lệnh của Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải tiến đến đảo Hoàng Sa với vận tốc nhanh nhất.
Theo mệnh lệnh này, HQ11 sẽ đổ bộ lên đảo Quang Ảnh 1 tiểu đội quân địa phương, lên đảo Hữu Nhật 1 trung đội và rút hết nhân viên hải quân về chiến hạm; số quân địa phương còn lại sẽ tăng cường phòng thủ đảo Hoàng Sa (Pattle); sau đó Hạm trưởng HQ11 sẽ điều động lực lượng tìm kiếm HQ10; trong công tác này Hạm trưởng HQ11 được toàn quyền áp dụng đội hình thích hợp để phòng không hoặc tránh né phi tiễn đĩnh Komar của TQ.

Trong ngày 18.1, BTL Hải quân Vùng 1 Duyên hải đã phối hợp chặt chẽ với BTL Quân đoàn 1- Quân khu 1 trong kế hoạch hành quân tái chiếm các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa, đặc biệt nhất là vấn đề hỗ trợ của không quân. Tuy nhiên, do quần đảo này nằm cách Đà Nẵng 170 hải lý, ngoài tầm hướng dẫn của Đài Kiêm báo Paloma (Tiền SHA) nên máy bay phản lực F5 của VNCH không thể hoạt động được. Do vậy Hải quân VNCH  phải chiến đấu đơn phương.

Hải đội trưởng lệnh cho các chiến hạm di tản khỏi vùng chiến sự vì 2 lý do: khả năng tác chiến của các tàu chiến đã suy giảm; chiến hạm cần rời xa để máy bay VNCH dễ dàng bắn phá chiến hạm TQ (do Vùng 1 Duyên hải thông báo)...
Trưa ngày 19 tháng 1, Hạm đội trưởng lệnh cho HQ4 và HQ5 vào Đà Nẵng. Ngay sau đó, theo ý kiến của Bộ chỉ huy hành quân lưu động biển, Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải đã chỉ thị cho HQ4 và HQ5 phải trở lại tiếp tục chiến đấu, tìm kiếm HQ10 và HQ16, đồng thời bảo vệ đảo còn lại. Trường hợp bị tấn công vào nếu phải rút lui, chiến hạm cố gắng ủi bãi, sẽ có HQ6 và HQ17 đến  tiếp cứu.

Tàu HQ16 bị hư hỏng, nước vào nhiều ở hầm máy B.1, tàu nghiêng 13 độ, vừa di chuyển về Đà Nẵng vừa tự cứu, cách đảo Hoàng Sa (Pattle) 15 hải lý về phía Tây . BTL Hải quân Vùng 1 Duyên hải chỉ thị HQ11 đến vị trí trên với vận tốc nhanh nhất để tiếp cứu HQ16.

Chiều ngày 19.1, các lực lượng hải quân VNCH đang neo tại phía tây tây nam Quang Ảnh nhận được lệnh của Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải tiến đến đảo Hoàng Sa với vận tốc nhanh nhất.
Theo mệnh lệnh này, HQ11 sẽ đổ bộ lên đảo Quang Ảnh 1 tiểu đội quân địa phương, lên đảo Hữu Nhật 1 trung đội và rút hết nhân viên hải quân về chiến hạm; số quân địa phương còn lại sẽ tăng cường phòng thủ đảo Hoàng Sa (Pattle); sau đó Hạm trưởng HQ11 sẽ điều động lực lượng tìm kiếm HQ10; trong công tác này Hạm trưởng HQ11 được toàn quyền áp dụng đội hình thích hợp để phòng không hoặc tránh né phi tiễn đĩnh Komar của TQ.
Tuy nhiên vì e dè phản ứng của TQ, đồng thời không liên lạc được với các toán quân trên đảo nên không rõ tình thế và lại gần có nhiều đá ngầm và nước cạn nên suốt đêm 19.1, tàu của VNCH chỉ tuần tiễu bên ngoài, trong khu tứ giác phía tây cách đảo Quang Ảnh từ 20 đến 40 hải lý.

BTL Hải quân Vùng 1 Duyên hải ra lệnh cho HQ11 và 3VPB di chuyển về hướng tây nam với vận tốc tối đa, sẵn sàng phòng không và phòng phi tiễn đĩnh Komar cùng các chiến hạm TQ truy kích.
Ngay sau khi ra lệnh, tàu VNCH rời khỏi Hoàng Sa để tránh máy bay TQ tấn công. BTL Hải quân Vùng 1 Duyên hải đã tổ chức hành quân tiếp cứu với sự tham dự của HQ6 cùng 2 VPB do Hạm trưởng HQ6 chỉ huy, đồng thời phối hợp với không quân (máy bay C47, C119) .


Trích từ:
Hải chiến Hoàng Sa 1974 khai hỏa, 2 bên cùng đổ bộ đảo Quang Hòa
Trung Quốc phái MiG oanh tạc dữ dội, Hoàng Sa thất thủ



TH, 
Ông Trục dựa vào Hải Sử Tuyển Tập, Hải quân VNCH, có đăng một phần ở Đây
Có lẽ loại tin trên trời của Bộ Tư lệnh trên giấy?, đang tìm nguồn đối chứng.

Hồi Ký Nguyễn Văn Sáng - Yểm Trợ Trận Chiến Hoàng Sa
Chiến hạm Vĩnh Long HQ-802 (LST) chúng tôi, hai máy tiến full vận chuyển với tốc độ nhanh đến vùng 1 Duyên Hải ngày 18-1-1974 để nhận lệnh....
Sáng sớm ngày 19-1-74, trong khi tàu chúng tôi được lệnh bỏ neo ngoài khơi, quá Ðà Nẵng ngang hòn Tri Tôn, Hạm trưởng Công ra lệnh 2 toán đặc biệt trang bị vũ khí và áo phao có cả 2 binh sĩ người nhái trực thuộc HQ-802 hạ xuồng chuẩn bị ứng chiến. Tuy nhiên, lệnh từ Bộ Tư Lệnh Vùng 1 vẫn giữ chúng tôi trong tình trạng chờ để yểm trợ...
Sáng ngày 20-1-74, hai chiến hạm HQ-4 và HQ-5 về lại Ðà Nẵng cập bến an toàn gặp lại HQ-16 đã về đó trước, tất cả các chiến hạm đều bị trúng đạn. Chiến hạm chúng tôi sau đó được lệnh trở về Vũng Tàu.

HQ-6,  HQ-11,... đang ở đâu, làm gì
Tuần Dương Hạm  HQ6 Trần Quốc Toản HộTống Hạm HQ11 Chí Linh rấtít được đề cập đến trong gần 30 bài viết của các chiến Hải quân VNCH về trận chiến Hoàng Sa. Nếu quả thật HQ6 HQ11 được lệnh tăng cường các chiến hạm chiến trường Hoàng Sa thì ai người đã ra lệnhtăng cường này?
Về sựviệc này, trong suốt các bài viếtdường như không bàinào nói vềmột lực lượng trừ bị để đáp ứng khi tình thếđòi hỏi. Tại sao HQ6 HQ11 được lệnh tăng viện trể như vậy, hay cấp chỉ huy ra lệnhbắt buộc khai hoả đã không biếtvề một lực lượng trừ bị đang tiến ra chiến trường


Lực lượng tham dự cuộc tìm kiếm gồm có Tuần Dương Hạm Trần Quốc Toản HQ6, hai chiếc Tuần Duyên Đỉnh (WPB) và 1 phi cơ C-119.
Sáng ngày 23-1 lúc 5 giờ 15 tất cả đã được chuyển sang Tuần dương Hạm Trần Quốc Toản HQ6 để đưa về Đà Nẵng.
 
Tất Ngưu
Bổ Túc Chi Tiết:
Trước trận hải chiến, Hộ Tống Hạm Chí Linh HQ11 hiện diện tại quân cảng Đà Nẵng.   Lúc trận chiến diễn ra, HQ11 đã rời bến đi tăng viện Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ10.  Khi rời bến HQ11 đã nhận giữ thư từ của HQ10.  Giữa đường đến quần đảo Hoàng Sa,  để tránh không tập của địch và bảo toàn lực lượng, HQ11 đã được lệnh gọi quay trở về.  Trên HQ11 có HQ Th/úy HHTT Nguyễn văn Kết.  Mới đây Kết có gởi cho Tất Ngưu một điện thư như sau.
(E-mail ngày 30 tháng 3 năm 2006)
Không biết là Tất Ngưu có biết  (hay có nhớ) rằng tớ là người đầu tiên nghe danh sách các chiến sĩ của HQ10, được tầu buôn Hòa Lan vớt lên …
Hôm đó tớ đi ca đêm trên Hộ Tống Hạm Chí Linh HQ11, khi anh hạ sĩ trực máy truyền tin nhận được tín hiệu từ tầu buôn Hòa Lan, tớ liền lên máy. Bên kia là một giọng nói Việt Nam, đọc cho tớ nghe tên của các chiến sĩ được vớt lên tầu …
Tớ không thể nào diễn tả được cảm xúc của mình lúc đó khi nghe tên của Chuẩn úy Tất Ngưu được đọc lên trong máy …
Ký tên,
Nguyễn văn Kết  …

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét