Sau khi xảy ra trận hải chiến ngày 19-1-1974, bộ Ngoại giao VNCH ra tuyên cáo lên án TQ xâm lăng và báo động thế giới rằng làm ngơ trước hành vi của TQ là khuyến khích kẻ gây hấn. Phần cuối bản tuyên cáo viết:
“Các hành động quân sự của Trung Cộng là hành vi xâm lăng trắng trợn vào lãnh thổ Việt-Nam Cộng Hòa, và một lần nữa vạch trần chính sách bành trướng đế quốc mà Trung Cộng liên tục theo đuổi, đã được biểu lộ qua cuộc thôn tính Tây Tạng, cuộc xâm lăng Đại Hàn và Ấn Độ trước kia.
Việc Trung Cộng ngày nay xâm phạm lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa không những chỉ đe dọa chủ quyền an ninh của Việt Nam Cộng Hòa mà còn là một hiểm họa đối với nền hòa bình và ổn cố của Đông Nam Á và toàn thế giới.
Với tư cách một nước nhỏ bị một cường quốc vô cớ tấn công, Việt Nam Cộng Hòa kêu gọi toàn thể các dân tộc yêu chuộng công lý và hòa bình trên thế giới hãy cương quyết lên án các hành vi chiến tranh thô bạo của Trung Cộng nhằm vào một quốc gia độc lập và có chủ quyền để buộc Trung Cộng phải tức khắc chấm dứt các hành động nguy hiểm đó.
Làm ngơ để cho Trung Cộng tự do tiến hành cuộc xâm lấn trắng trợn nầy là khuyến khích kẻ gây hấn tiếp tục theo đuổi chính sách bành trướng của chúng và sự kiện nầy đe dọa sự sống còn của những nước nhỏ, đặc biệt là những nước Á Châu.
Trong suốt lịch sử, dân tộc Việt Nam đã đánh bại nhiều cuộc ngoại xâm. Ngày nay, Chánh phủ và nhân dân Việt Nam Cộng Hòa cũng nhất định bảo vệ sự toàn vẹn của lãnh thổ quốc gia.”
(Tài liệu ronéo của Bộ Ngoại giao VNCH, Sài Gòn, số 015/BNG/TTBC/TT.)
Sau đó, ngày 14-2-1974, chính phủ VNCH ra tuyên cáo xác định chủ quyền trên những hải đảo ngoài khơi VNCH. Sau khi tố cáo hành vi xâm lăng trắng trợn của TQ, bản tuyên cáo viết:
“Trong dịp nầy, Chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa cũng long trọng tái xác nhận chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa trên những hải đảo nằm ở ngoài khơi bờ biển Trung Phần và bờ biển Nam Phần Việt Nam từ trước tới nay vẫn được coi là một phần lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hòa căn cứ trên những dữ kiện địa lý, lịch sử, pháp lý và thực tại không chối cãi được.
Chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa cương quyết bảo vệ chủ quyền quốc gia trên những đảo ấy bằng mọi cách.
Trung thành với chánh sách hòa bình cố hữu của mình, Chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa sẵn sàng giải quyết bằng đường lối thương lượng những vụ tranh chấp quốc tế có thể xảy ra về những hải đảo ấy, nhưng nhất định không vì thế mà từ bỏ chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa trên những phần đất nầy.”
(Tập san Sử Địa , Sài Gòn: số 29, tháng 1, 2 và 3-1975.)
Về phía Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Tuanvietnam có cuộc phỏng vấn với nhà nghiên cứu Trung Quốc lão thành Dương Danh Dy - người có may mắn biết được nội tình câu chuyện.
"- Có một câu hỏi mà nhiều người thắc mắc là, hồi Trung Quốc đánh Hoàng Sa đầu năm 1974, tại sao Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lại không lên tiếng phản đối?
Và, đối với một số người, thậm chí còn đặt vấn đề nặng hơn là Việt Nam lúc đó đã nể, sợ Trung Quốc. Thậm chí không ít người còn chỉ trích Ban Lãnh đạo Việt Nam lúc đó còn đặt tình đồng chí cao hơn lãnh thổ quốc gia?
Tôi xin nói rằng đó chính là câu hỏi mà tôi cũng thắc mắc cách đây 40 năm, khi còn là một tổ trưởng theo dõi quan hệ Việt - Trung. Tất nhiên, tôi phàn nàn với mấy anh bạn đồng nghiệp thôi. Nhưng không hiểu sao, ông Nguyễn Cơ Thạch, lúc đó là Thứ trưởng Ngoại giao, nghe được, và cho gọi tôi lên gặp ông.
Ông Thạch, vốn rất quý tôi vì biết rõ tính ngay thẳng của tôi, đã nói luôn:
"Dy ơi, sao cậu dại thế! Đất nước đã thống nhất chưa? Thống nhất đất nước so với việc Trung Quốc chiếm nửa Hoàng Sa thì cái nào lớn hơn?
Cậu có biết rằng viện trợ của Liên Xô và phe xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu dành cho chúng ta chủ yếu đi qua đường nào? Rồi cậu chắc biết hơn những người khác rằng Trung Quốc viện trợ cho chúng ta như thế nào trong cuộc kháng chiến chống Mỹ...
Thế mà bây giờ, vì cái chuyện Hoàng Sa, mà đằng nào họ cũng chiếm của Việt Nam rồi, chúng ta lên tiếng, đã không làm được gì còn ảnh hưởng tới sự nghiệp lớn hơn."
(Nhà nghiên cứu Dương Danh Dy, nguyên Bí thư thứ nhất Đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh, nguyên Tổng lãnh sự Việt Nam tại Quảng Châu, Trung Quốc.)
Trong cuốn "Ban Liên hợp quân sự và trại Đa-vít những tháng ngày..., " Nxb Quân đội nhân dân. H. 1997, đoạn có liên quan đến sự kiện:
"Ngày 18 tháng 1 năm 1974, xảy ra vụ Hoàng Sa (lúc đó do quân Sài Gòn đóng giữ và bị đánh chiếm), thì sáng thứ bảy 19 tháng 1 có cuộc họp báo do trưởng đoàn ta chủ trì để kiểm điểm một năm thi hành Hiệp định. Hôm đó nhà báo đến dự rất đông... moi móc thái độ ta về vụ Hoàng Sa này.
Đây là một vấn đê rất tế nhị, phải chờ sự chỉ đạo của cấp trên, nên tạm thời ta chỉ nói chung: đất đai Tổ quốc là thiêng liêng, Hoàng Sa đang do phía "chính quyền Sài Gòn" quản lý nên phải hỏi trách nhiệm của họ, còn về phần ta chưa nhận được tin tức, khi nắm được sự việc rồi sẽ bày tỏ thái độ sau. Vài hôm sau ta nhận được chỉ thị về tuyên bố ba điểin của Chính phủ Cách mạng lâm thời:
1 Vấn đề chủ quyền và toàn vẹn 1ãnh thổ 1à vấn đề thiêng liêng đối với mỗi dân tộc.
2. Trong vấn đề biên giới 1ãnh thổ, các nước 1áng giẽng thường có sự tranh chấp do lịch sử để lại, có khi rất phức tạp cần được nghiên cứu và xem xét kỹ.
3. Các nước có 1iên quan cần xem xét vấn đề này theo tinh thần bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, hữu nghị và láng giềng tốt, giải quyết vấn đề bằng thương lượng.
Trước thái độ này, các nhà báo không còn đặt thêm vấn đề gì nữa..."
Tham khảo thêm chuyện ở phiên họp của Phái đoàn Liên hợp quân sự 4 bên về việc Giám sát thi hành Hiệp định Paris:
Hoàng Sa: Từ Quế Lâm đến Sài Gòn (*)
N.H.D
1. Quế Lâm
Quế Lâm, một trong những địa danh du lịch nổi tiếng nhất Trung quốc thuộc tỉnh Quảng Tây. Tại đây có một bệnh viện nằm ngoại ô thành phố, chuyên điều trị cho những thương binh nặng hay cán bộ trung cấp Việt nam bệnh nặng. Anh chị em bệnh nhân dự định ngày Chủ nhật 20-1-1974 sẽ cùng nhau vào thành phố và đi thăm một số nơi đã cưu mang giúp đỡ các thiếu sinh quân Việt nam. Sáng đó trời nắng đẹp, nhưng tất cả các hành lang đều có các bác sỹ và y tá án ngữ : Không ai được ra khỏi phòng bệnh. Điều này cũng xảy ra tại Quảng châu, nơi các cán bộ cao cấp đang an dưỡng. Điều lạ lùng này xảy ra giống hệt hai năm trước, năm 1972 khi Tổng thống Nixon đang thăm Bắc kinh. Không một ai trong số các bệnh nhân đó biết rằng : Trung quốc đã xâm chiếm quần đảo Hoàng sa. Do vậy họ quản chặt bệnh nhân Việt nam vì sợ nổi loạn. Tôi đã gặp ông N. đại tá ,thương binh thành cổ Quảng trị và ông C. cựu cán bộ Đài Phát thanh Truyền hình Việt nam kể lại ngày ấy. Hành động của họ mạnh tới mức, bà H., một người xu nịnh Trung quốc bằng cách luôn mang sách đỏ Mao tuyển, nghĩ rằng mình được lòng Bệnh viện xưa nay, cứ xin ra ngoài, nói tiếng Tàu ba xí, ba tú , liền bị hai người mặc quân phục kèm lên Văn phòng Khoa ngồi suốt ngày.
2. Sài gòn
Hôm sau, phiên họp của Phái đoàn Liên hợp quân sự 4 bên về việc Giám sát thi hành Hiệp định Paris do Thiếu tướng Lê Quang Hòa, trưởng phái đoàn Việt nam Dân chủ Cộng hòa chủ trì tại Sài gòn. Trong phiên họp này, phía Việt nam Cộng hòa đã đưa văn bản đề nghị chính thức Chính phủ VNDCCH cùng với mình ra thông cáo lên án hành động xâm lược lãnh thổ-lãnh hải của Việt nam. Đề nghị này còn lên kế hoạch chi tiết, trong đó yêu cầu quân Bắc Việt nam và quân của Chính Phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt nam giảm áp lực tại quân đoàn 2 của VNCH. Trong đó đề nghị cụ thể không tiến công quấy rối Đà nẵng, Nha trang và các sân bay ở khu vực này để quân lực VNCH có thể rảnh tay tập trung tái chiếm quần đảo Hoàng sa.
Theo lời kể lại của ông H., nguyên sỹ quan bảo vệ an ninh cho đoàn, ông Hòa đã điện về xin ý kiến Trung ương. Đích thân ông Lê Đức Thọ phê bình ‘’lập trường chính trị các anh để đâu? Đang có chiến tranh, lại phối hợp hoạt động với địch à? Cuộc chiến tranh gay go của ta rất cần sự ủng hộ của Trung quốc, mà lại nói quay sang chống bạn. Họ có giải phóng giúp ta, thì sau này cũng trả lại cho ta thôi.’’
Sau đó, phía VNCH đề nghị họp bất thường. Lần này,Trung tướng Ngô Du chủ trì phiên họp. Mở đầu, ông ta nói :
-Trong phiên họp này, tôi đề nghị không cáo buộc, cãi nhau về những vụ xâm phạm lãnh thổ, vi phạm hiệp định nữa. Trung cộng đã ngang nhiên xâm lược và chiếm giữ toàn bộ quần đảo Hoàng sa. Đất của chúng tôi thì cũng như đất của các anh vì cùng là đất tổ tiên chúng ta để lại cả. Vì thế, chúng ta nên xếp ba bốn cái vụ tranh cãi lại, để ngồi cùng nhau bàn bạc về việc phối hợp hoạt động chông lại sự xâm lăng này.
Cũng như đề nghị bằng văn bản, tướng Ngô Du ngoài sáng kiến giảm bớt áp lực quân sự thuộc quân đoàn 2 ra, ông ta còn đòi phía VNDCCH gửi công hàm lên án tại Liên hiệp quốc, vận động phe XHCN cũng như Thế giới lên tiếng phản đối.
Phái đoàn Mỹ, người bảo trợ cho tất cả các hoạt động quân sự của VNCH im lặng, không có ý kiến gì.
Ông Lê Quang Hòa cũng tảng lờ, không đáp lại đề nghị này. Ông biết tướng Ngô Du, một thời cũng là cựu đồng ngũ, đã là cán bộ tiểu đoàn thuộc Vệ quốc đoàn, sau đó đảo ngũ và sang phía bên kia , cũng đã một vài lần nói chuyện có vẻ ‘’hòa hợp dân tộc’’. Ông Hòa tưởng tảng lờ đề nghị đó cho qua chuyện nhưng ông Ngô Du nổi đóa. Ông chửi tục, nói chúng mày tảng lờ , là tiếp tay cho Trung Cộng, là bán nước mà còn tiếp tục định đánh không cho chúng tao giành lại đất đai của ông cha.
Cáu đến đỉnh điểm, ông Ngô Du vớ lấy cái gạt tàn thuốc lá bằng thủy tinh ném thẳng vào mặt ông Lê Quang Hòa. Ông Hòa né được, gạt tàn đập vào tường vỡ tung tóe.
Sỹ quan bảo vệ, ông H. lao đến, định chộp cổ ông Ngô Du nhưng bị mấy người lính cận vệ phía bên kia khóa tay.
Cũng trong mấy ngày đó, đài Sài gòn và BBC liên tục đưa tin về sự kiện Hoàng sa. Những người nghe lén đài địch phát rất rõ đã rỉ tai nhau về việc này tại Hà nội. Nhưng giải thích mơ hồ, ngây ngô và vắn tắt từ trên đưa xuống tới các chi bộ Tiểu khu (cấp phường) là bạn giải phóng giúp, sẽ trả lại sau này làm dư luận bớt xầm xì.
Hơn một năm sau, lúc Hải quân Việt nam giải phóng các đảo thuộc phía bên kia, sự ngây thơ trên bị đáp lại phũ phàng bẳng việc trả lời đanh thép của phía Trung quốc trước đề nghị cho nhận lại quần đảo của Việt nam.
Có ai đồng tình lên án hành động xâm lăng đó ?
Sau biến cố đau thương đó, chỉ có Liên xô là nước duy nhất lên án hành động xâm lược trắng trợn, dã man của Trung quốc với một nước nhỏ phía Nam. Họ cũng đã nếm trải hành động này 15 năm trước đó. Hai hòn đảo thuộc cù lao Damansky trên song Usuri bị chiếm đóng, dân cư bị sát hại /2/. Từ đó, các đảo này bị Trung quốc sáp nhập vào lãnh thổ. Vết nhục này đến nay chưa phai trong lòng người Nga. Cuộc chiến trả đũa lớn dự kiến đánh vào Lopno và khắp miền bắc Trung quốc vì sao không xảy ra sẽ được viết trong bài sau.
Cũng như với Damansky, rồi gần đây có bài viết tự nhận Siberia của mình,Trung quốc luôn cố chứng minh, họ đã là chủ Biển Đông từ 2 ngàn năm trước.
Cần tránh lối mòn nhàm, chán
Rất buồn, nhiều người Việt nam cũng luôn dựa vào sự chiếm hữu lịch sử như trên là luận điểm cơ bản mong thuyết phục. Nhưng cả Tàu lẫn Việt không hiểu tâm tính người phương Tây và không quan tâm gì đến những quy ước mới về đất biển. Tôi rất đồng tình với /1/ cho rằng Công pháp quốc tế mới đòi hỏi phải hội đủ 4 điều kiện sau đây mới được coi là có quyền sở hữu, chấp hữu đảo và lãnh hải : (1) Sự chấp hữu phải công khai và minh bạch; (2) Sự chấp hữu phải hoà bình; (3) Sự chấp hữu phải liên tục và
không gián đoạn và (4) Sự chấp hữu phải với tư cách là sở hữu chủ.
Để giải thích thêm điều này ta hãy quan sát thái độ người châu Âu, nơi mà đường biên giới thay đổi trong suốt nửa đầu Thế kỷ trước. Lãnh thổ của Hungari thành của Rumani và nước khác. Lãnh thổ Balan thành của Ucraina và Bạch Nga, Lãnh thổ Ý thành một phần của Nam Tư, v.v. Vậy nên, việc sở hữu lịch sử không phải là chứng cứ họ quan tâm nhiều. Điển hình như Israel, nước luôn nêu lãnh thổ lịch sử từ trên 2000 năm trước, được cả Thế giới công nhận, cũng không thể là cớ để xâm lược các nước Ả rập đang chiếm hữu mảnh đất đó được.
Theo tình hình đó,chủ trương của Việt nam cũng như người Việt nói chung phải thay đổi. Thay vì cày xới chứng minh sử hữu lịch sử, chúng ta cần nghiên cứu và công bố trước Thế giới việc chấp hữu công khai, minh bạch, liên tục, hòa bình và sở hữu chủ. Về điểm này,Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã phát biểu đúng/3/.
Như vậy,việc củng cố vị trí của các đảo còn lại chưa bị xâm lược trên quần đảo Trường sa là rất quan trọng. Việc tăng cường phòng ngự không chỉ là việc của chính quyền mà còn là nhiệm vụ của mỗi người dân. Người dân Nga trước kia ăn khoai tây, bán bột mỳ đi lấy tiền cá nhân góp nhau mua tặng Hồng quân máy bay, xe tăng thì người Việt nam cũng có thể có nhiệt tình như thế. Tôi rất xúc động khi thấy thanh niên ở một số Diễn đàn trên Internet không chỉ đến thăm, úy lạo các gia đình lính đảo mà còn gửi quà, động viên gia đình dân thường sinh sống ở các đảo đó. Hành động nhỏ bé hơn ngàn lần nói suông. Hoàng sa mất rồi, Trường sa cố giữ.
38 năm qua,việc thua trận hải chiến Hoàng sa 1974 không lúc nào không nhức nhối trong lòng người Việt. Đứng vững tại địa điểm chiến lược, Trung quốc tung thòng lọng chín khúc thít chặt vào cổ Việt nam và mấy nước nhỏ bé khác.
Phải làm gì đây ?
Tác giả gửi cho Quê choa
(Bài vở gửi đăng QC là chủ kiến riêng của tác giả, không hẳn là chủ kiến của QC)
Tham khảo
1.Nguyễn Cần .Chỉ là chuyện giấc mơ
2.A.D.Vasunovsky .Quan hệ Liên xô-Trung quốc thế kỷ 20, Maxcova 2001 (tiếng Nga)
3.Kỳ họp thứ 2, Quốc hội Việt nam khóa 23 ngày 25.11.2011
Chú thích
(*) Tựa "Hoàng Sa: Từ Quế Lâm đến Sài Gòn" do ban biên tập NTHF đặt vì nguyên bản không có tựa.
Nguồn: Nguyenthaihocfoundation
Theo nguồn BBC - Tư liệu giải mật có biên bản cuộc họp ngày 25/01/1974, một tuần sau trận hải chiến Hoàng Sa:
"Ngoại trưởng Mỹ hỏi tiếp: "Phản ứng của Bắc Việt trước toàn bộ vụ việc là thế nào?"
William Colby, Giám đốc tình báo CIA, nói: "Họ bỏ qua, nói rằng nó nằm dưới Vĩ tuyến 17 và vì thế không có ảnh hưởng đến họ. Nói chung, họ không đưa ra lập trường, không theo bên nào."
Ông William Smyser, từ Hội đồng An ninh Quốc gia, nói thêm: "Nó đặt họ vào tình thế tế nhị. Họ không nói gì cho đến khi đã xong chuyện, và rồi chỉ nói họ lên án việc dùng vũ lực."
Cuộc bàn luận tiếp tục với trình tự như sau:
"Ngoại trưởng Kissinger: Tôi biết họ nói gì rồi, nhưng họ thực sự cảm thấy thế nào?
Đô đốc Moorer: Tôi nghĩ họ lo lắng."
Về phía Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoa miền Nam Việt Nam
Trích Tuyên bố 3 điểm của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoa miền Nam Việt Nam ngày 26/4/1974 tại Hội nghị Hiệp thương La Cellesaint Clou - Ảnh: chụp lại từ cuốn "Kỷ yếu Hoàng Sa"
Monique Chemillier-Gendreau trích dẫn một bài báo Le Monde ngày 27-28 tháng 1 năm 1974 nêu rõ:
"Tại hội nghị La Celle Saint Cloud, Chính phủ Cách mạng lâm thời CHMNVN bác bỏ đề nghị của Sài Gòn ra một nghị quyết chung lên án sự chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa bằng vũ lực của Trung Quốc, vì theo ông, việc tranh chấp phải được giải quyết bằng thương lượng."
Im lặng không phải là đồng ý?
Bấy giờ, do ở vào thời điểm nhạy cảm phải tập trung toàn lực cho giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, và cũng do theo điều khoản của Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954 các quần đảo phía nam vĩ tuyến 17 tạm thời thuộc quyền tài phán của chính quyền Nam Việt Nam nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa không lên tiếng công khai. Chỉ có Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra tuyên bố khẳng định: Chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ là một vấn đề thiêng liêng đối với mỗi dân tộc; vấn đề biên giới và lãnh thổ là vấn đề mà giữa các nước láng giềng thường có những tranh chấp do lịch sử để lại; các nước liên quan cần xem xét vấn đề này trên tinh thần bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, hữu nghị và láng giềng tốt và phải giải quyết bằng thương lượng.
______________
Về phía Chính phủ Hoa Kỳ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét