Tìm kiếm Blog này

Thứ Bảy, 14 tháng 3, 2015

Hệ thống chỉ huy, ai chịu trách nhiệm giao nhiệm vụ và ra lệnh



Tuyết Mai: Thưa Đô Đốc là người ra lệnh cho Đại Tá Ngạc khai hỏa?
PĐĐ Hồ Văn Kỳ Thoại: Đại tá Ngạc có đề nghị rằng “Tới lúc nào đó thì phải nổ súng, vì họ không chịu ra, mình phải dùng võ lực theo chỉ thị của Tổng Thống Thiệu, tức là vị Tổng Tư Lệnh Quân Đội”. Tôi có nói với Đại Tá Ngạc: "Khi nào ông sẳn sàng thì khai hỏa”. Lúc các chiến hạm ở trong vị thế không thuận lợi thì Đại Tá Ngạc cho khai hỏa. Khi nổ súng thì tôi có nghe trong máy truyền tin, lúc đó khoảng 10 giờ sáng ngày 19 Tháng 1, 1974.
Tuyết Mai: Thưa theo Đô Đốc, chúng ta không có chuẩn bị, không có kế hoạch trước, lúc đó HQVN có kêu cứu với các Cố Vấn Mỹ?
PĐĐ Hồ Văn Kỳ Thoại: Trong cương vị của cấp chỉ huy tôi đã biết và tôi phải biết là Hoa Kỳ sẽ không tham dự cuộc chiến dù nguy kịch đến đâu. Đó là điều tôi đã biết trước, tuy nhiên tôi cũng có điện thoại về Bộ Tư Lệnh Hải Quân, để hỏi vị trí của Đệ Thất Hạm Đội của HK thì được biết là lúc nào họ cũng hoạt động vùng biển Đông. Bộ Tư Lệnh cho biết Đệ Thất Hạm Đội có mặt tại đó. Tôi không hy vọng họ tham gia, nhưng tôi cần họ cứu vớt người trên biển. Khi sự việc xảy ra rồi, không có chiến hạm nào của Mỹ đến cứu vớt.


Về phía VNCH
Theo Đại Tá Hà Văn Ngạc, Hải đội trưởng tường Thuật:
thượng-tầng chỉ-huy và của các đơn-vị tham-chiến của Hải-quân vào lúc biến-cố:
- Tư-lệnh Hải-quân: Ðề-Ðốc Trần-văn-Chơn
- Tư-lệnh-phó Hải-quân: Phó Ðề-Ðốc Lâm-ngươn-Tánh
- Tham-mưu-Trưởng Hải-quân: Phó Ðề-Ðốc Diệp-quang-Thủy
- Tư-lệnh Hạm-đội: HQ Ðại-tá Nguyễn-xuân-Sơn
- Tư-lệnh HQ Vùng 1 Duyên-hải: Phó Ðề-Ðốc Hồ-văn Kỳ-Thoại
- Chỉ-huy-trưởng Hải-đội tuần-dương: HQ Ðại-tá Hà-văn-Ngạc, (Hải-đội 3) và là Sĩ-quan chỉ-huy chiến-thuật trận hải-chiến.
- Hạm-trưởng Khu-trục-hạm HQ4: HQ Trung-Tá Vũ-hữu-San
- Hạm-trưởng Tuần-dương-hạm HQ5: HQ Trung-Tá Phạm -trọng- Quỳnh
- Hạm-trưởng Tuần-dương-hạm HQ16: HQ Trung-Tá Lê-văn-Thự
- Hạm-trưởng Hộ-tống-hạm HQ10: HQ Thiếu-Tá Ngụy-văn-Thà (truy-thăng HQ Trung-Tá)
- Trưởng toán Hải-kích đổ-bộ: HQ Ðại-Úy Nguyễn-minh-Cảnh.

TỔNG THỐNG NGUYỄN VĂN THIỆU VÀ HẢI CHIẾN HOÀNG SA 19-1-1974.
Thềm Sơn Hà
Mặc dù biến cố Hoàng Sa (HS) đã trải qua 38 năm, nhưng cho đến nay biến cố này vẫn còn gây ra nhiều nghi vấn.
Hầu hết các bài viết và câu trả lời trong các cuộc phỏng vấn đều dựa trên trí nhớ… và theo thời gian nhiều khi không chính xác, các sự kiện rất mâu thuẫn, nếu không tìm được tài liệu còn lưu trữ thì cũng rất khó để tìm ra sự thật.
Vì vậy không thể đổ lỗi cho một ai khi sau này tìm ra được tài liệu bằng giấy trắng mực đen để kiểm chứng lại.
Trong tất cả các bài viết, rất ít tài liệu viết về Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu. Khoảng thời gian gần đây tác giả may mắn tìm thêm một số tài liệu liên quan đến ông, hy vọng sẽ trình bày phần nào về vai trò của ông trong biến cố lịch sử này.


Thềm Sơn Hà

------------- o0o -----------------
    Từ lúc Trung Cộng (TC) tuyên bố chủ quyền trên khắp các hải đảo trong vùng biển Đông gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa cho đến ngày 19-1 xảy ra trận hải chiến khốc liệt giữa Hải quân VNCH và hải quân TC . Và tiếp theo vào ngày 20-1-1974, TC đổ quân chiếm trọn HS, Tổng Thống Thiệu (TT Thiệu) chưa một lần xuất hiện trước quần chúng  trên đài truyền hình, lên tiếng trên đài phát thanh hoặc họp báo để phản đối TC xâm chiếm HS.
Ông cũng gây ngạc nhiên cho Hoa Kỳ (HK) khi ngay cả trong thông điệp chúc Tết ông cũng không đá động một lời nào về HS. (1)
Như vậy trong biến cố HS, ông đã làm gì? Và đã có những hoạt động nào ?

1.- Thăm viếng và ủy lạo chiến sĩ : (2)
TT Thiệu đã thăm viếng và ủy lạo chiến sĩ một tuần trước Tết Nguyên Đán ( ngày 22 tháng 1-1974 là ngày mùng một) theo chương trình như sau:
- Quân Đoàn I :
Ngày 15-1, TT Thiệu bắt đầu ủy lạo một số đơn vị ngoài mặt trận thuộc tỉnh Quảng Ngải. Vào chiều ngày 15, ông đến Đà Nẵng và dùng cơm tối tại Bộ Chỉ Huy/Tiếp Vận I ở Mỹ Khê.
Ngày 16-1, lúc 8 giờ sáng TT Thiệu đến Bộ Tư Lệnh/Vùng 1 Duyên Hải (BTL/VIDH). Sau đó ông thăm các chiến sĩ đóng tại phía Bắc đèo Hải Vân.
- Quân Đoàn II :
Ngày 17-1, ông đến Quân đoàn II và ghé thăm Trung Đoàn 47 thuộc Sư Đoàn 22 Bộ Binh ở Pleiku, đơn vị này đã tham dự cuộc hành quân tái chiếm Plei Kjerang.
Tiếp theo ông đến tỉnh Quảng Đức, thăm căn cứ Trung Đoàn 45 ở quận Đức Lập là đơn vị đã chiếm lại quận Kiến Đức.
Trưa ngày 17-1, ông ghé thăm tiền đồn Biệt Động Quân gần Daksong.
Ngày 18-1, ông chủ tọa lễ mãn khóa 27 tại trường Võ Bị Quốc gia Đà Lạt, trong bài diễn văn, TT Thiệu không đề cập đến Hoàng Sa. Ông nghỉ đêm tại Đà Lạt.
Trong cùng ngày, theo ĐĐ Trần Văn Chơn TL/HQ :” Trước đó tôi nhận được tin cho biết Tổng Thống tham dự một cuộc lễ mãn khóa ở Đà Lạt và Tổng Thống muốn gặp tôi ở trên đó nhưng khi tôi lên gặp thì Tổng Thống không nói gì cả.” (3)
- Quân Đoàn III :
Rời Đà Lạt sáng ngày 19-1, TT Thiệu tiếp tục đi ủy lạo chiến sĩ thuộc Quân Đoàn III ở An Lộc, Lai Khê. Từ An Khê, trực thăng của ông bay dọc theo quốc lộ 13, về hướng bắc tỉnh Chơn Thành, dọc theo lộ trình, khi thấy một đơn vị Thiết giáp, ông đã ra lệnh trực thăng đáp xuống và tự tay phát quà cho họ, hành động này đã làm các chiến sĩ thiết giáp ngạc nhiên.
Theo chương trình ông sẽ tiếp tục thăm viếng Quân Đoàn IV (không tìm thấy tài liệu về chuyến thăm viếng QĐIV, có thể vì biến cố HS nên ông đã hủy bỏ).

2.- Các hoạt động liên quan đến biến cố Hoàng Sa:
   2.1.- Thời gian xác định:
- chiều ngày 15, tại căn cứ BCH/Tiếp Vận I ở Mỹ Khê, Phó Đề Đốc (PĐĐ) Hồ Văn Kỳ Thoại TL/HQ/V1DH đã trình lên TT Thiệu sự việc phát hiện chiến hạm TC (LTG: thực sụ đây là tàu đánh cá ).
- Sáng ngày 16-1, ông đến BTL/V1DH, có Trung Tướng  Ngô Quang Trưởng Tư Lệnh QĐI tháp tùng. Sau khi nghe PĐĐ Thoại thuyết trình, ông đã viết thủ bút chỉ thị biện pháp thi hành cho Tư Lệnh Hải Quân V1DH (TL/HQ/V1DH). (4)
- Sáng ngày 19-1, từ Đà Lạt ông gọi điện thoại ra Trung Tâm Hành Quân BTL/VIDH (TTHQ/V1DH).
Theo HQ Đại Úy Lê Văn Thự Trung Tâm Trưởng/TTHQ/VIDH (TTT/TTHQ) thì sau khi : [“Đại Tá Ngạc chỉ thị cho toán Người nhái và toán Biệt hải đổ bộ lên đảo Quang Hòa đang có quân TC chiếm đóng để yêu cầu bọn chúng rời khỏi đảo và xem phản ứng của chúng như thế nào. Nhưng khi lực lượng ta tiến vào đảo đã bị chúng nổ súng trước (chúng có công sự chiến đấu) và bên ta có 2 người tử thương. Toán đổ bộ nhận được lịnh rút lui trở về chiến hạm.
    Cũng trong lúc này, từ Đà Lạt Tổng Thống Thiệu gọi điện thoại về TTHQ/VIDH hỏi :”
Tình hình Hoàng Sa như thế nào rồi?”
TL/HQ/VIDH Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại trả lời trực tiếp với Tổng Thống Thiệu :
Ta đổ bộ lên đảo có quân TC đã bị chúng bắn trả gây cho ta 2 tử thương” liền theo đó Tổng Thống Thiệu hỏi: ”Như vậy Hải quân đã làm gì chưa?
”] (5)
Và ông chấm dứt cuộc điện đàm với TL/VIDH bằng một câu hỏi.
- 20 tháng 1-1974, TT Nguyễn Văn Thiệu chỉ thị Ngoại Trưởng (NT) Vương Văn Bắc gọi điện thoại cho Đại Sứ (ĐS) HK Martin để thảo luận về việc xử dụng một số biện pháp ngoại giao như sau:
           1.- thông báo cho Hội Đồng Bảo An và Tổng Thơ Ký Liên Hiệp Quốc nhưng
                chưa có quyết định về việc có cần triệu tập buổi họp của Hội Đồng Bảo An.
           2.- đưa kháng thư lên Tổ chức các quốc gia vùng Đông Nam Á (SEATO).
           3.- đem vấn đề tranh chấp ra trước Toà án quốc tế, nhưng NT Bắc còn
                 lưỡng lự vì lo ngại là TC sẽ  không chấp nhận quyền xét xử của toà án
                 này, ngoài ra ông cũng không chắc là tòa án sẽ đưa ra phán quyết
                 có lợi cho VNCH.
            4.- thông báo các quốc gia ký kết Hiệp định Paris về việc TC tấn công
                 HS, vì theo tinh thần hiệp ước này thì các nước sẽ tôn trọng sự toàn
                 vẹn lãnh thổ cuả VNCH, và TC là một trong những nước đã ký tên
                 vào hiệp ước này.
Ngoài ra NT Bắc còn cho ĐS Martin biết là TT Thiệu cảm thấy ông cần phải kêu gọi đến sự giúp đở của HK, là người bạn và cũng là đồng minh thân thiết nhất. Ông hy vọng HK sẽ tận lực ủng hộ trong các vận động ngoại giao này. (6)
- Ngày 21-1, Đại Sứ Martin cho biết là :”… sáng ngày 21 tháng 1, ông nghe tin TT Thiệu đã ra lệnh không quân VN oanh tạc lực lượng TC ở HS. Lệnh này đã được ngưng lại.” (7)
- ngày 21-1, Đại Sứ Martin trong văn thư gởi về BNG/HK :”.. Tôi hoàn toàn chắc chắn là hành động như vậy sẽ không thể nào xảy ra nếu không có sự chấp thuận của chính Tổng Thống Thiệu, người đã hiện diện tại Đà Nẵng vào thời điểm đó, mặc dù chúng ta  có thể cho là, theo ý kiến của của tôi, hành động này được coi là thiếu cân nhắc … “  (8)
- Ngày 22-1, mùng 1 Tết, TT Thiệu đọc thông điệp chúc Tết đến toàn dân. trong thông điệp này ông không có một lời nào đề cập đến trận hải chiến và cũng không lên tiếng tố cáo TC đã dùng vũ lực chiếm đoạt quần đảo Hoàng Sa của VNCH. Trong khi đó ông lại nói về đạo luật bầu cử mà quốc hội đã thông qua vào ngày xảy ra trận hải chiến, ngày 19 tháng 1-1974 !!!!
Đạo luật này cho phép ông và các vị Tổng Thống kế nhiệm được quyền ra tranh cử nhiệm kỳ thứ ba và nhiệm kỳ Tổng Thống sẽ được kéo dài 5 năm thay vì 4 năm
. (1)
- Ngày 22-1, TT Thiệu gởi thơ cho Tổng Thống HK Richard Nixon để yêu cầu chánh phủ
Hoa Kỳ “…hết lòng hỗ trợ về vật chất và chánh trị cần thiết…”  mặc dù Đại Sứ Martin đã ngăn cản. (9)
(Thay vì viết phúc thư trực tiếp đến Tổng Thống Thiệu, Tổng Thống Nixon đã gởi điện văn cho Đại Sứ Martin khoảng 3 tuần sau đó và chỉ thị ông đến gặp thẳng Tổng Thống Thiệu để diễn đạt lại nội dung của bản phúc đáp.) (10)
- Sáng ngày 22 tháng 1, nguồn tin từ dinh độc lập cho hay là chánh phủ VN cảm thấy bắt buộc phải mở cuộc hành quân cứu cấp không/hải để tìm kiếm những người có thể sống sót trên biển. (11)
2.2.- Thời gian không xác định:
     1.- Cựu Ngoại Trưởng VNCH Vương Văn Bắc đã viết:
          a.- ” ….tôi cần minh xác là Bộ Ngoại Giao cũng như cá nhân tôi không hề được Tổng Thống……. tham khảo ý kiến hay thông báo diễn tiến vế các vấn đề quân sự, các cuộc hành quân…… (trước trận hải chiến).
          b.- “… tôi còn nhớ có tham gia một phiên họp cấp cao ở miền duyên hải Trung phần để thảo luận về vụ Hoàng Sa, sau khi quần đảo nầy đã bị Trung Cộng cưỡng đoạt. Tôi nhớ trong phiên họp nầy có mặt Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Ðại Tướng Cao Văn Viên và mấy vị khác mà ngày nay tôi không còn nhớ rõ tính danh…” (12)
     2.- HQ Đại Tá Đỗ Kiểm :
“Ngay lập tức sau trận chiến Kiếm đã phải bay ra Phan Rang để thuyết trình trong chuyến đi nghỉ mát của Tổng Thống Thiệu. Ông không dám nói với TT Thiệu là Tư Lệnh và Tư Lệnh Phó /HQ đã bỏ lỡ trận hải chiến duy nhất trong lịch sử hải quân hiện đại, tuy nhiên  ông đã đề cập đến việc không có sự yễm trợ của lực lượng không quân. Cuộc thuyết trình đã diễn ra dưới bóng mát của một vọng lầu bằng gạch được xây ngay trên bãi biển, trong lúc các người trong gia đình của ông Thiệu đi qua đi lại, tìm khăn tắm hoặc thuốc lá.
    " Đại Tá Kiểm đừng lo", Thiệu xoa dịu, "chúng tôi sẽ cho anh chiếc tàu khác.” (13)

NHẬN XÉT

   
Cho đến nay vẫn còn nghi vấn về lệnh khai hỏa trong trận hải chiến HS. Theo PĐĐ Thoại thì ông là người trực tiếp ra lệnh khai hỏa dựa trên thủ bút của TT Thiệu viết cho ông ngày 16-1 khi TT Thiệu đến thăm VIDH. Nhưng trong bài viết ‘Trận hải chiến Hoàng Sa và nước mắt của vị Tư Lệnh Hải Quân’ của HQ Đ/Úy Lê Văn Thự phổ biến trên www.hqvnch.net vào tháng 12-2008 (như đã dẫn chứng đoạn trên) thì PĐĐ Thoại đã ra lệnh khai hỏa ngay sau khi TT Thiệu chấm dứt cuộc điện đàm.
    Để tìm câu trả lời về lệnh khai hỏa trong ngày 19-1, bài viết sẽ phân tích về chỉ thị của TT Thiệu và nhận xét về cuộc điện đàm giữa TT Thiệu và TL/V1DH.
1.- Phân tích về chỉ thị của TT Thiệu viết cho PĐĐ Thoại     Trong cuốn sách “Can trường trong chiến bại” PĐĐ Thoại viết về hoạt động của HQ 16 trong ngày 16-1 (chính xác là ngày 15-1): ”Sáng ngày 16, chiến hạm HQ 16 khi đến nơi vùng đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam, báo cáo rằng có một số tàu đánh cá chạy về hướng Bắc và đồng thời khi người nhái của Hải Quân Việt Nam đổ bộ để thám sát các đảo Duncan và Drummond thì đụng ngay một toán quân nhân Trung Cộng………… (trang 155)
Và sau đó trong ngày 17-1 (chính xác là ngày 16-1) , PĐĐ Thoại viết tiếp :” Trong đêm tình hình yên lặng. Sáng ngày 17-1, tuần dương hạm HQ 16 báo cáo là hai tàu đánh cá Trung Cộng không tuân lịnh của chiến hạm Việt Nam ra khỏi lãnh hải Việt Nam.
Ngoài ra chiến hạm HQ 16 báo cáo sự xuất hiện của hai tàu chở quân của Trung Cộng đến gần đảo và trên bờ có cắm nhiều cờ Trung Cộng. Trung tá Thự cho một toán đổ bộ gồm một trung úy và mười bốn đoàn viên của chiến hạm trang bị M79 và súng cá nhân lên bờ bằng xuồng cao su để nhổ hết cờ Trung Cộng và thay bằng cờ Việt Nam. Khi lên bờ toán này gặp nhiều người Trung Hoa nhưng không rõ là ngư phủ hay binh sĩ tuy nhiên toán đổ bộ được chỉ thị không được bắn trước trừ khi phải tự vệ…..
(trang 156)
Đúng 8 giờ sáng ngày hôm sau, tổng thống và phái đoàn ………….đến bộ tư lịnh Vùng 1 Duyên Hải bằng xe…………….. Tôi nhấn mạnh việc chiến hạm Việt Nam cố gắng mời chiến hạm Trung Cộng rời khỏi lãnh hải một cách ôn hòa nhưng tình hình trong 24 giò qua cho thấy Trung Cộng có ý định khiêu khích.”
Đoạn viết trên của PĐĐ Thoại đã cho thấy những diễn tiến dồn dập kể từ lúc HQ 16 đến HS vào lúc sáng ngày 15-1 cho đến khi TT Thiệu đến BTL/V1DH lúc 8 giờ sáng ngày hôm sau 16-1 và ông đã trình bày với TT Thiệu :”….Tôi nhấn mạnh việc chiến hạm Việt Nam cố gắng mời chiến hạm Trung Cộng rời khỏi lãnh hải một cách ôn hòa nhưng tình hình trong 24 giờ qua cho thấy Trung Cộng có ý định khiêu khích.“ (4) (trang 157&158).
                           Diễn tiến và thời gian qua báo cáo của PĐĐ Thoại :
        a.- Diễn tiến : khi TT Thiệu đến vùng I, lúc bấy giờ báo cáo từ HQ 16 là chỉ có 1 tàu đánh cá TC mà thôi. (PĐĐ Thoại báo cáo cho TT Thiệu là 2 chiến hạm TC, trong khi ông báo cáo cho TL/HQ là 2 tàu đánh cá có võ trang và trong bài phỏng vấn với Tuyết Mai thì ông trả lời “Chỉ thị của Tổng Thống là mời các ngư thuyền cũng như chiến hạm lạ ra khỏi lãnh hải của chúng ta. Lúc đó tôi cũng chưa chắc những chiến hạm hiện diện đó là của Trung Cộng”.) (14)
Thực tế như tác giả đã chứng minh trong bài viết “Kế hoạch cưỡng chiếm Hoàng Sa tháng 1-1974 của Trung Cộng” (15) là từ chiều ngày 15-1 cho đến sáng ngày 16-1 lúc TT Thiệu đến V1DH vẫn chỉ có một tàu đánh cá mang số 402 có treo cờ TC đã được HQ 16 phát hiện vào chiều ngày hôm trước 15-1.
:” Lúc 5 giờ chiều ngày 15 tháng 1, chiến hạm HQ 16 của HQVN neo ở hướng đông đảo Cam Tuyền cách bờ 100m đã phát hiện tàu TC neo phiá ngoài đảo Cam Tuyền thuộc quần đảo HS, cách bờ 100m. Tàu TC là loại tàu đánh cá khoảng 100 tấn, trang bị một số antenna. Trên đảo Cam Tuyền có cờ TC. HQ 16 ra hiệu yêu cầu tàu TC rời khỏi khu vực nhưng không có phản ứng.” (15)
Công điện dẫn chứng trên đã xác nhận một cách đầy đủ và rõ ràng thời gian, vị trí, loại tàu, quốc tịch và hoạt động của tàu đánh cá khi bị HQ 16 phát hiện và báo cáo về BTL/V1DH.
       b.- Thời gian : HQ 16 báo cáo phát hiện tàu đánh cá TC về TTHQ/V1DH khoảng 5 giờ chiều ngày 15-1. Đến 8 giờ sáng ngày 16-1, TT Thiệu đến BTL/V1DH như vậy chỉ sai biệt trong vòng 15 giờ (khác với 24 giờ cách biệt như PĐĐ Thoại đã viết) và theo Đ/Úy Đào Dân sau khi phát hiện, HQ 16 đã dùng loa phóng thanh phát tiếng Trung Hoa để yêu cầu họ rời khỏi hải phận VN cho đến khi trời tối, HQ 16 phải vận chuyển ra xa để giữ an toàn cho chiến hạm. (16)
                                                          Nhận Xét:
                  Thực sự ngoài PĐĐ Thoại, cho đến nay không ai biết được là ông đã trình bày những gì với TT Thiệu và thủ bút của TT Thiệu đã chỉ thị cho ông ra sao. Nhưng theo PĐĐ Thoại, sáng ngày 16-1, sau khi nghe ông thuyết trình, TT Thiệu đã viết thủ bút chỉ thị ông:
Thứ nhứt là tìm đủ mọi cách ôn hòa mời các chiến hạm Trung Cộng ra khỏi lãnh hải VNCH.
Thứ hai, nếu họ không thi hành thì được nổ súng cảnh cáo trước mũi các chiến hạm này và nếu họ ngoan cố thì toàn quyền xử dụng vũ khí để bảo vệ sự vẹn toàn của lãnh thổ VNCH
.(4)
    Đề Đốc Trần Văn Chơn TL/HQ trả lời cuộc phỏng vấn là: “Khi ông Thoại báo cáo cho tôi về vấn đề HS, ông không báo cáo là có tàu binh của Trung Quốc mà chỉ nói là có hai chiếc tàu đánh cá có gắn súng đại liên thôi.” thì ông đã trả lời một cách ngắn gọn :”  Tôi liền ra lịnh cho Đô Đốc Thoại đuổi 2 tàu đánh cá Trung Quốc ra khỏi hải phận của ta, nếu nó không nghe thì lôi nó giải giao về Đà Nẵng” (3 trang 324). 
Vì theo ông, TL/V1DH đã điện trình lên ông là: ”Tổng Thống ra lệnh cho Đô Đốc Thoại phải giữ vững Hoàng Sa và đuổi tàu Trung Cộng ra khỏi hải phận” (16)
    Chỉ thị của TT Thiệu và của ĐĐ Chơn không khác nhau lắm và đây cũng chỉ là phản ứng thông thường mà các vị Tư Lệnh vùng duyên hải vẫn thường xuyên ra lệnh cho các đơn vị trực thuộc thi hành mỗi khi phát hiện tàu thuyền ngoại quốc xâm phạm lãnh hải VNCH. (trong rất nhiều trường hợp, tại vùng biển Phú Quốc thuộc V4DH, chiến hạm hải quân đã sử dụng vũ khí để bắt giữ tàu đánh cá Thái Lan vi phạm hải phận).
    Có lẽ đối với TT Thiệu đây là trường hợp đơn giản, chỉ cần thẫm quyền V1DH giải quyết, do vậy ông đã chỉ thị TL/HQ/V1DH thi hành. Dĩ nhiên là một vị tướng lãnh thâm niên, nếu nhận thức tình thế nghiêm trọng người mà ông ra chỉ thị phải là Trung Tướng Ngô Quang Trưởng thay vì PĐĐ Thoại.
    Về phần BTL/HQ, sau khi nhận công điện báo cáo phát hiện tàu TC từ V1DH, BTL/HQ đã không có chỉ thị khẩn cấp và đã không điều động cấp thời chiến hạm nào ra V1DH để trợ lực với HQ 16, điều này phải được hiểu đây chỉ là trường hợp vi phạm lãnh hải rất thường xảy ra và sự hiện diện của HQ 16 cũng quá đủ để đối đầu với một tàu đánh cá của TC. Có lẽ PĐĐ Thoại cũng hiểu chỉ thị của TT Thiệu là chỉ để đối phó cấp thời đuổi tàu TC ra khỏi hải phận. Do vậy ông rất e dè sử dụng biện pháp mạnh.
    Sự dè dặt trong việc sử dụng biện pháp cứng rắn đối phó với lực lượng TC hiện diện trong khu vực nhóm Nguyệt Thiềm đã được ghi nhận qua sự  kiện các chiến hạm VN chưa hề nhận được lịnh sử dụng vũ khí, kể cả vũ khí cá nhân, ngay khi tàu đánh cá và chiến hạm địch khiêu khích bằng cách vận chuyển đâm ngang mũi hoặc quá gần chiến hạm ta. Theo lời PĐĐ Thoại thì ông luôn nhấn mạnh tới điểm xử dụng biện pháp ôn hòa để mời tàu đánh cá và chiến hạm TC ra khỏi lãnh hải VNCH từ ngày 15-1 đến sáng ngày 19-1. Và cũng chính vì sự dè dặt này mà 2 tàu đánh cá TC 402 và 407 vẫn tự do hoạt động trong nhóm Nguyệt Thiềm và đã thực hiện công tác hướng dẫn và đổ quân chiếm trọn 3 đảo còn lại là Cam Tuyền, Hoàng Sa và Vĩnh Lạc trong ngày 20-1. (15)
    Khi lực lượng Người Nhái và Biệt hải đổ bộ lên đảo Quang Hòa, cùng lúc TC cũng đổ bộ khoảng 2 đại đội lên hướng Đông Bắc, đưa đến sự nguy hiểm và bất lợi cho lực lượng ta, các chiến hạm vẫn không nhận được lịnh tác xạ lên bờ để dọn đường và yễm trợ cho lực lượng đổ bộ cũng như khi TC tác xạ vào lực lượng đổ bộ gây cho ta tử thương 2 người và bị thương 3 người, Đại Tá Ngạc phải ra lịnh triệt thoái, phiá bên ta vẫn bất động.
    PĐĐ Thoại trả lời câu hỏi số 5 của UBHS (3) :” Không ai nghĩ ra sẽ có một cuộc hải chiến, kể cả Tổng Thống Thiệu”. Có lẽ ý nghĩ này đã hạn chế ông sử dụng vũ lực ngay cả trong thời gian đầu khi HQ 16 phát hiện tàu đánh cá 402, và chắc ông cũng hiểu rõ là chỉ thị của TT Thiệu viết cho ông không phải ủy quyền cho ông ra lệnh khai hỏa để khởi đầu một cuộc hải chiến mà hậu quả không thể nào lường.
    Như vậy thì động lực nào đã thúc đẩy PĐĐ Thoại phải ra lịnh khai hỏa ? Có phải chăng là cú điện thoại mà TT Thiệu đã gọi vào TTHQ/V1DH vào sáng ngày 19-1 như Đại Úy Lê Văn Thự đã viết trong tham khảo (4).
2.-Nhận xét về sự xác thực của cuộc đàm thoại giữa TT Thiệu và PĐĐ Thoại.    Như đã dẫn chứng phần trên, chỉ thị của TT Thiệu và ĐĐ Chơn để đối phó với tàu đánh cá số 402 phát hiện trong chiều ngày 15-1 và chiếc số 407 vào trưa ngày 16-1 gần khu vực đảo Cam Tuyền đã không được V1DH chỉ thị cho HQ16 và HQ 4 (đến HS vào trưa ngày 17-1) thi hành. (1)
    Như vậy có thể nào TL/V1DH lại có thể đơn phương ra lệnh nổ súng vào chiến hạm TC dẫn đến trận hải chiến với kết quả là mất trọn cả nhóm Nguyệt Thiềm, nếu như không có một chỉ thị nào khác hơn là câu hỏi ‘Như vậy Hải quân đã làm gì chưa?’ của TT Thiệu tù Đà Lạt gọi điện thoại vào TTHQ/V1DH trước khi ông lên đường tiếp tục ủy lạo chiến sĩ tại Vùng 3 Chiến Thuật.
    Điều này chứng tỏ là câu hỏi ngắn gọn của TT Thiệu đã được PĐĐ Thoại hiểu như là một mệnh lệnh, bắt buộc ông phải có phản ứng cứng rắn để đáp lại việc TC đã nổ súng vào lực lượng ta. Như vậy, câu hỏi có tích cách lịch sử này cần phải được cứu xét để xác định sự xác thực của cú điện thoại và nội dung của cuộc điện đàm.
    Điểm nghi vấn được đặt ra ở đây là PĐĐ Thoại đã không đề cập đến cú điện thoại này trong sách hoặc trong bất cứ một cuộc phỏng vấn nào từ trước đến nay. Và người độc nhất tiết lộ về chi tiết này là HQ Đại Úy Lê Văn Thự trong bài viết “Trận hải chiến HS và nước mắt của vị Tư Lịnh HQ” đã được phổ biến hạn chế trong số bạn hữu tại tiểu bang Oklahoma vào năm 1997. Bài này đã được ông viết lại và tái đăng trong http://hqvnch.net/default.asp?id=1267&lstid=135 tháng 12-2008.
    HQ Đại Úy Thự giữ chức vụ Trung Tâm Trưởng/TTHQ/VIDH từ tháng 10-1973 cho đến khi QĐI thất thủ và nhiệm vụ của TTT/TTHQ là nhận và thi hành chỉ thị thượng cấp  trong việc điều động các đơn vị trực thuộc, tiếp nhận báo cáo từ các đơn vị trực thuộc, liên lạc các TTHQ quân binh chủng trong vùng trách nhiệm…..  Trong ngày 19-1, ông đã có mặt từ sáng cho đến chiều trong TTHQ. Theo ông thì hệ thống liên lạc trong TTHQ (máy truyền tin và điện thoại) khi nhận và phát thì tất cả những người có mặt trong trung tâm đều nghe rõ.
    Qua bài viết của Đ/Úy Thự, TT Thiệu đã chấm dứt cuộc điện đàm bằng một câu hỏi ”Như vậy Hải quân đã làm gì chưa?”  và từ câu hỏi ngắn gọn này của TT Thiệu đã được PĐĐ Thoại hiểu như là một mệnh lệnh, bắt buộc ông phải có phản ứng cứng rắn để đáp lại việc TC đã nổ súng vào lực lượng ta và Đô Đốc Thoại không còn phản ứng nào khác hơn là  quyết định ra lệnh khai hỏa.”
HQ Đại Tá Phạm Mạnh Khuê viết trong HSTT “ hồi 08:35H, bên bờ phía Tây Nam đảo Duncan, Trung Cộng bắt đầu nổ súng tấn công trung đội Hải Kích. Ngay phút đầu tiên, ta tử thương 2 và bị thương 3. Hải kích phải rút về bìa san hô vì địch quá mạnh. Hồi 08:50H, Tư Lệnh Vùng I Duyên Hải chỉ thị chiến hạm bắn tối đa vào đảo; đồng thời, nếu cần, triệt hạ luôn chiến hạm địch” (16)
Và theo tài liệu từ phiá HK thì PĐĐ Thoại ra lịnh khai hỏa vào lúc 08:50H các chiến hạm HQVN đã nhận được lịnh tác xạ vào đảo trong lúc triệt thoái toán Người nhái và Biệt hải về tàu nhưng không giao chiến với tàu TC (VNN SHIPS WERE ORDERED TO SHELL ISLAND WHILE EXTRACTING TROOPS, BUT NOT TO ENGAGE THE PRC SHIPS.)(17)
    Hai tài liệu dẫn chứng trên đã cho thấy sự trùng hợp về thời gian và mục tiêu của lệnh khai hỏa chỉ có một điểm khác là bài viết của Đại Tá Khuê có thêm câu “… đồng thời, nếu cần, triệt hạ luôn chiến hạm địch”
    Theo Đại Tá Khuê thì TC bắt đầu nổ súng vào lực lượng ta vào lúc  08:35H. Như vậy câu hỏi đặt ra ở đây là nếu dựa vào thủ bút của TT Thiệu thì TL/V1DH phải ra lệnh phản pháo ngay vào giờ phút này khi địch nổ súng gây thương vong về phía ta, không cần phải chờ đến 15 phút sau mới quyết định ra lệnh khai hỏa.
Điều này cho thấy là ông vẫn còn ngần ngại trong quyết định sử dụng vũ lực để đối đầu với TC và ông chỉ ra lệnh khai hỏa sau khi đã có một sự hối thúc nào đó từ cấp thẫm quyền cao cấp hơn và thẫm quyền này không ai khác hơn là TT Thiệu qua câu hỏi chấm dứt cuộc điện đàm.
Do vậy có thể xác định thời gian TT Thiệu từ Đà Lạt gọi vào TTHQ/V1DH là trong khoảng từ 08:35H đến 08:45H sáng ngày 19-1-1974.
    Đại Tá Ngạc cũng đã diển tả tương tự tuy thời gian sai biệt nhau 40 phút:” Việc thất-bại đổ-bộ được báo-cáo ngay về Bộ-Tư-lệnh HQ vùng I duyên-hải và chừng ít phút sau đó (vào khoảng 09:30 sáng) thì đích thân Tư-lệnh HQ VNCH hay Tư-lệnh Vùng I duyên-hải ra lệnh vắn-tắt có hai chữ: "khai-hỏa" bằng bạch-văn cho Hải-đoàn đặc-nhiệm và không có chi-tiết gì khác hơn.”
Điểm cần ghi nhận là từ sau trận hải chiến HS cho đến khi mất miền Trung, PĐĐ Thoại TL/HQ/VIDH vẫn còn tại chức. Như vậy là dưới mắt TT Thiệu, TL/V1DH đã thi hành đúng chỉ thị của ông khi ra lệnh khai hỏa.
    Có điều hơi khó hiểu là để trả lời cho câu hỏi :” Với tư cách là Tư Lệnh Chiến Trường, Đô Đốc có dự trù là nếu trong trường hợp đổ bộ lên đảo Quang Hòa không thành công, Đô Đốc sẽ rút toán Hải Kích về tàu, chỉ thị chiến hạm quay lại đổ bộ toán Người Nhái và Hải Kích lên tăng cường 3 đảo còn lại ở hướng Tây là Vĩnh Lạc (Money), Cam Tuyền (Robert) và Hoàng Sa (Pattle). Như vậy ta vẫn còn quân phòng thủ trên các đảo còn lại và vẫn còn 4 chiến hạm làm thành tuyến ngăn chận từ Hoàng Sa đến Quang Hòa trong khi chờ đợi những diễn tiến mới về chính trị, ngoại giao…?” [(2) câu hỏi số 13, trang 354)], PĐĐ Thoại đã không cho là ông phải thi hành lệnh của TT Thiệu như những lần trước mà ông lại trả lời :”Chỉ có nhựt ký của Trung Tâm Hành Quân Vùng 1 Duyên Hải mới trả lời được câu này.”
    Có phải chính ông cũng đã dự trù hành động như câu hỏi nêu trên, nhưng TT Thiệu vì tự ái dân tộc, căm phẩn trước kẻ thù truyền kiếp TC đã ngang nhiên xâm phạm lãnh thổ và nổ súng giết chết binh sĩ ta đã vội vàng đặt câu hỏi để kết thúc cuộc điện đàm như là một mệnh lệnh  buộc ĐĐ Thoại không còn cách chọn lựa nào khác hơn là phải ra lệnh khai hỏa.
 Và biết đâu nếu như không có cú điện thoại của TT Thiệu, ngày nay Việt Nam vẫn còn giữ lại các đảo phiá Tây nhóm Nguyệt Thiềm của quần đảo Hoàng Sa và TC sẽ bớt hung hãn hơn trong vùng Biển Đông.
Xác nhận TT Thiệu đã ra lệnh khai hỏa từ phiá HK:
1.- Đại Sứ Martin.(xem ‘Các hoạt động liên quan đến biến cố Hoàng Sa’ ở phần trên)
2.- Indochina resource center, Washington,D.C. FEB 1, 1974 : ’báo cáo cho là chính TT Thiệu đã ra lệnh khai hỏa những phát súng đầu tiên vào Trung Cộng ở Hoàng Sa.’
3.- Ký giả Phil McCombs thuộc báo Washington Post ở Sài Gòn viện dẫn nguồn tin từ các giới chức thẫm quyền HQVN cho biết là chính TT Thiệu đã ra lệnh chiến hạm VN khai hỏa trước, sau khi các chiến hạm TC khiêu khích các chiến hạm VN trong vùng (18)

Phân tích về nhận định của cựu Bí thư Hoàng Đức Nhã về Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu trong biến cố Hoàng Sa.
    Gần đây trong ngày 23 tháng 9, trên www.bbc.co.uk có đăng bài phỏng vấn với tựa đề :“Cựu bí thư Hoàng Đức Nhã nói về di sản của cố Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa, Nguyễn Văn Thiệu và "bi kịch" mất Hoàng Sa.” nội dung như sau:
Hoa Kỳ "không thông báo" cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa:"Sao Hoa Kỳ thấy như vậy với bao nhiêu phương tiện quan sát điện tử, thấy sự di chuyển của hạm đội Trung Quốc lại không cho phía Việt Nam Cộng hòa biết."
Ông Nhã cho biết ông và Tổng thống Thiệu đã "không tin" khi nghe đại sứ Hoa Kỳ lúc đó, ông Graham Martin nói rằng phía Hoa Kỳ "không thể thấy được".
Ông Hoàng Đức Nhã nói ông đã chất vấn Đại sứ Martin Ông Nhã khẳng định ông Thiệu đã ngay lập tức chỉ đạo chính quyền, ngoại giao và quân đội Việt Nam Cộng hòa phản đối hành động "xâm lăng" khi hạm đội của Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa
.
Trong một công bố với tư cách của người làm chứng, ông Hoàng Đức Nhã thuật lại, dưới sự chỉ đạo của Tổng thống Thiệu, ông đã "gọi điện cho đại sứ Hoa Kỳ" và chất vấn vì sao rằng chuyện một hạm đội di chuyển mà người Mỹ "không thấy" thì quả là khó tin.”
    Trong đoạn phát biểu này, ông Nhã không nói rõ thời gian là lúc nào. Nhưng qua câu :”… phản đối hành động “xâm lăng” khi hạm đội của Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa.” có thể suy ra là ông Thiệu đã chỉ thị cho ông Nhã trong hoặc sau ngày 20-1, sau khi lực lượng HQVN đã rút về Đà Nẵng trong ngày 19-1 và TC đã đưa lực lượng Hải Lục và Không quân tiến chiếm trọn vẹn quần đảo HS trong ngày 20-1-1974.
    Hầu hết tài liệu viết về trận hải chiến HS đã chứng tỏ là trước và trong lúc xảy ra trận hải chiến, lực lượng TC tham dự gồm có 4 chiếm hạm tương đương hộ tống hạm Nhật Tảo HQ 10, 2 tàu đánh cá và 1 hoặc 2 tàu đổ bộ. Sau khi các chiến hạm ta rời vùng, lúc 12 giờ 12 phút có thêm 2 chiến hạm khác đến tăng cường đánh chìm HQ 10. (19)
    Viên chức dân sự Gerald Kosh thuộc tòa Tổng lãnh sự HK tại Đà Nẵng đã cho biết là trong khuya vào lúc 03:30H ngày 21-1, ông đã được đưa xuống tàu rời đảo HS và trên đường di chuyển ông đã nhận dạng 18 chiến hạm TC hiện diện trong vùng (20). Như vậy sự kiện TC đưa lực lượng hùng hậu để chiếm HS là chuyện có thật và điều này cũng dễ hiểu vì họ đã dự trù là với một lực lượng như thế , TT Thiệu sẽ phải cân nhắc cẩn thận trước khi có ý định sử dụng vũ lực để tái chiếm HS.
    Có điều là TT Thiệu chất vấn HK để làm gì khi mọi chuyện đã an bài, thì dù HK có thông báo đi nữa cũng làm sao đổi ngược lại tình thế một khi VNCH đã không có kế hoạch nào để đối đầu với sách lược của TC kể từ lúc đầu và làm sao có khả năng quân sự để tái chiếm HS một khi HK đã nhất quyết không can dự !
    Thật là trớ trêu khi từ ngày 11-1 cho đến ngày 19-1, không tài liệu nào chứng tỏ là chánh phủ VNCH đã có bất cứ lần tiếp xúc nào với phiá HK, ngoại trừ ĐS Martin trong ngày 17-1 đã gặp NT Vương Văn Bắc để cho biết về lập trường của HK và đề nghị với VNCH phương thức hành xử . Nhưng đến khi mất HS thì lại trách HK không thông báo về sự di chuyển của hạm đội TC.
    Ví thử HK có thông báo thì TT Thiệu sẽ đối phó cách nào. Ngay cả dự định gởi F-5 ra oanh tạc HS trong ngày 21-1 cũng phải hủy bỏ thì ông còn cách gì khác hơn ? (21)
Và làm cách nào để giải thích lý do từ khi ông “giao khoán” trách nhiệm đối đầu với lực lượng TC cho TL/V1DH không có một tài liệu nào chứng tỏ là ông đã có sự quan tâm và theo dõi đến tình hình HS, khi gặp TL/HQ Trần Văn Chơn tại Đà Lạt trong chiều ngày 18-1, ông cũng không hỏi han gì đến những diễn tiến ngoài HS.
    Sáng ngày 19-1 khi được tin cuộc đổ bộ lên đảo Quang Hòa thất bại, TC đã nổ súng gây thương vong cho lực lượng ta, ông vẫn thản nhiên tiếp tục chương trình thăm viếng chiến sĩ tại Quân đoàn 3. Sau khi mất HS, ông mới bắt đầu lo ngại Trường Sa sẽ là mục tiêu sắp tới của TC. Do vậy, ông đã làm HK ngạc nhiên khi chỉ khoảng 10 ngày sau đó vào ngày 31-1, ông ra lệnh cho HQ/VNCH tiến chiếm thêm 5 đảo ỏ Trường Sa. (22). Đây có thể nói là quyết định rất mạo hiểm vào lúc bấy giờ nhưng lại là một quyết định rất sáng suốt vì đã góp phần vào việc cũng cố và duy trì chủ quyền của nước Việt Nam trên hầu hết vùng Trường Sa cho đến ngày nay. Tiếc thay, phải chi ông có mối ưu tư ở HS kể từ lúc phát hiện tàu đánh cá TC cắm cờ trên đảo Cam Tuyền hoặc sớm hơn vài năm trước, có lẽ TC không quá lộng hành ở Biển Đông như ngày hôm nay
                       Để kết luận, có thể nói khuyết điểm lớn nhất của TT Thiệu trong biến cố Hoàng Sa là ông đã không tiên liệu âm mưu chiếm đoạt HS của TC vì vậy ông đã không chỉ đạo các cấp lãnh đạo dân sự và quân sự dự trù kế hoạch đối phó và phối hợp phương thức hành động.
    Và cũng như tất cả những người Việt Nam yêu nước, ông đã căm phẩn khi TC không những xâm phạm lãnh thổ nước ta mà chúng còn nổ súng gây tử vong cho chiến sĩ ta, do vậy ông đã nóng lòng vội vàng đặt câu hỏi “như vậy hải quân đã làm gì chưa?” không có ý nghĩa nào khác hơn là chúng đã bắn mình trước các anh còn chờ gì nữa, và ĐĐ Thoại đã hiểu ý của TT Thiệu, lệnh khai hỏa đã được ban hành và đã dẫn đến kết quả quần đảo HS hoàn toàn thuộc về TC.


THAM KHẢO :
- (1) Điện văn số 072480 ngày 24 tháng 1-1974 của TĐS/HK/SG gởi BNG/HK
- (2) Điện văn số 046612 ngày 22 tháng 1-1974 của TĐS/SG gởi BNG/HK.
- (3) Ủy ban nghiên cứu trận hải chiến Hoàng Sa “Hải chiến Hoàng Sa 19-1-1974”-
 TH/HQ&HH/VNCH tháng 9-2010, USA.
- (4) Hồ Văn Kỳ Thoại “Can trường trong chiến bại” USA, 5-2007.
- (5) Lê Văn Thự (HQ Đại Úy Trung Tâm Trưởng TTHQ/HQ/V1DH) :” Trận hải chiến Hoàng Sa và nước mắt của vị Tư Lệnh Hải Quân” http://hqvnch.net/default.asp?id=1267&lstid=135.
- (6) Điện văn số 029248 ngày 20 tháng 1-1974 của TĐS/HK/SG gởi BNG/HK .
- (7) Điện văn số 0587 ngày 21 tháng 1-1974 của TĐS/HK/SG gởi Tướng Brent Scowscoft-Hội Đồng An Ninh Quốc Gia HK (NSC-National Security Council).
Trong điện văn này Đại Sứ Martin không nói rõ có phải chính ông đã can thiệp buộc TT Thiệu phải ngưng lệnh dội bom HS.
- (8) Điện văn số 924 ngày 21 tháng 1-1974 cuả TĐS/HK/SG gởi BNG/HK.
- (9) Thềm Sơn Hà “Thư Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu gởi Tổng Thống Richard Nixon” http://hqvnch.net/default.asp?id=1047&lstid=135
- (10) Văn thư ngày 8 tháng 2-1974 của NSC gởi Ngoại Trưởng Henry Kissinger
- (11) Điện văn số 303253 ngày 22 tháng 1-1974 của Bộ Tham Mưu Hỗn Hợp (JCS-Joint Chiefs of Staff) gởi BTL/HQ/HK,
- (12) Vương Văn Bắc “ Nhớ lại và suy ngẫm về vụ hải chiến Hoàng Sa”, nhật báo Nguời Việt online Saturday, February 21, 2009.
- (13) Kiem Do and Julie Kane "Counterpart, A South Vietnamese Naval Officer's War", Naval Institute, Press, Annapolis, Maryland, 1998.
- (14) Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại Nói Về Hải Chiến Hoàng Sa  TUYẾT MAI . Việt Báo Thứ Bảy, 1/12/2008, 12:02:00 AM.
- (15) Thềm Sơn Hà “Kế hoạch cưỡng chiếm Hoàng Sa tháng 1-1974 của Trung Cộng”. Đặc san Đồng Nai-Cửu Long số 12 tháng 3-1011 và http://hqvnch.net/default.asp?id=1036&lstid=135
- (16) Hải Sử Tuyển Tập “Hải chiến Hoàng Sa” Tổng Hội HQHH ấn hành 2004 – USA.
- (17) Điện văn số 025483 ngày 19 tháng 1-1974 của TĐS/HK/SG gởi BNG/HK
- (18) Điện văn số 075995 ngày 22 tháng 1-1974 cuả BNG/HK gởi TĐS/HK/SG.
- (19) Thềm Sơn Hà “ Lực lượng Trung Cộng trong biến cố Hoàng Sa”http://hqvnch.net/default.asp?id=1000&lstid=135.
- (20) Điện văn số 325606 ngày 01 tháng 2-1974 của ban thẩm vấn G. Kosh gởi cho
Tư Lệnh/LL/HK tại Thái Bình Dương.
- (21) Điện văn số 0587 ngày 21 tháng 1-1974 của Đại Sứ Martin gởi Brent Scowcroft (NSC - National Security Council)
- (22) Thềm Sơn Hà “HQ/VNCH mở cuộc hành quân THĐ 48 chiếm cứ 5 đảo ở Trường Sa  vào tháng 2-1974”.http://hqvnch.net/default.asp?id=1429&lstid=135

Phụ Chú:
1.- Trong tham khảo (5), HQ Đ/U Lê Văn Thự viết về TL/HQ :”…Nghe tin xấu về HQ 10, Đô Đốc  Trần Văn Chơn quá xúc động , ông gục đầu vào máy KW 58 nước mắt chảy dài.”
Ngoài ra trong điện văn số 076622 ngày 06 tháng 2-1974 của TĐS/HK/SG gởi về BNG/HK cũng đã viết về sự nhạy cảm của ông : “…Đô Đốc Chơn TL/HQ đã khóc trong buổi tiếp đón tù binh đã được TC phóng thích ngày 31 tháng 1.”
2.- Trong bài “Lệnh khai hoả trận Hoàng Sa 34 năm về trước“  tác giả Giao Chỉ viết :
”Khi đặt bút viết bài này có tựa đề là Lệnh Khai Hoả. Tác giả là một chiến binh lục quân chân đất, hoàn toàn không có kiến thức Hải Quân nên chỉ xin lạm bàn chút đỉnh. Lệnh khai hoả thực sự bắt đầu từ đâu và vào lúc nào? Ðô Đốc Kỳ Thoại viết trong chương sách về trận Hoàng Sa có ghi rằng đại tá Ngạc chỉ huy hạm đội xin ông lệnh khai hoả. Qua máy truyền tin tiếng súng bắn tại Hoàng Sa, đại tá Ngạc mở lớn cho ông Thoại nghe thấy. Bút ký của sĩ quan truyền tin trên HQ 5 cũng ghi rõ đoạn này. Tài liệu bằng Anh ngữ của đại tá Ðỗ Kiểm thuộc bộ tư lệnh Hải Quân Sài Gòn lại ghi rằng đại tá Ngạc điện thoại về xin lệnh khai hoả của đề đốc tư lệnh Hải Quân. Lúc đó tư lệnh đang trên đường bay ra Vùng I. Vì chuyện khẩn cấp nên đại tá Kiểm xin lệnh của đô đốc Diệp Quang Thủy có mặt tại bộ tư lệnh Sài Gòn. Nhận lúc họp bạn với anh em Hải Quân để viết lại câu chuyện làm phim, chúng tôi có dịp nói chuyện thêm chi tiết với đô đốc Thủy. Bây giờ đại tá Hà Văn Ngạc không còn nữa. Người viết chuyện tò mò muốn tìm hiểu đành phải suy nghĩ rằng trước khi nổ súng ông đã gọi bộ tư lệnh Hải Quân để xin phép trước. Qua Đô Đốc Diệp Quang Thủy ông được lệnh Sài Gòn. Sau đó ông cẩn thận xin lệnh Ðà Nẵng qua đô đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, và lệnh khai hoả bắt đầu.” 
Trong trích đoạn trên, quả nhiên đã có sự mâu thuẫn về lệnh khai hoả như tác giả Giao Chỉ viện dẫn. Để sáng tỏ sự việc, cần phải có một bài viết dài để phân tích (tác giả hy vọng sẽ có bài viết sau này). Ở đây, xin đưa ra vài nhận xét ngắn gọn:
              * Dựa trên dẫn chứng từ tài liệu tham khảo (17) thì ĐĐ thoại ra lệnh các chiến hạm tác xạ vào đảo vào lúc 08:50H nhưng vì lý do gì các chiến hạm đã không lập tức thi hành lệnh của ông mà phải đợi đến 10:24H các chiến hạm mới bắt đầu khai hỏa nhưng lần này mục tiêu là các chiến hạm TC ?
Qua các bài viết từ các chiến sĩ đã tham dự trực tiếp trận hải chiến, có thể tìm được câu trả lời hợp lý nhất như sau:
Khi Đại Tá Ngạc (thi hành lệnh ĐĐ Thoại) gọi máy ra lệnh cho các Hạm Trưởng khai hỏa lên đảo, các vị này nhận thấy lệnh này không hợp lý và họ đã trình bày ý kiến của mình. Phản ứng của các vị Hạm Trưởng đã đặt Đ/Tá Ngạc trong tình trạng khó xử và có lẽ chính ông cũng nhận thấy sự vô lý nên đã gọi máy về BTL/HQ để giải thích và xin chỉ thị.
Và đây có lẽ là lý do vì sao PĐĐ Diệp Quang Thủy và HQ Đ/Tá Đỗ Kiểm đã gián tiếp can dự vào trận hải chiến Hoàng Sa
”.


Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, Tư Lệnh Vùng I Duyên Hải

Sau khi được báo cáo có tàu Trung Cộng xuất hiện trên vùng quần đảo Hoàng Sa, Phó Đề Đốc Thoại có trình với quý vị tướng lãnh và Tổng Thống Thiệu.   Ngày  17 Tháng 1, Tổng Thống Thiệu có  một cuộc họp với các vị tướng lãnh  tại Bộ Tư Liệnh Vùng I duyên Hải ở Đà Nẳng. Sau  khi nghe Phó Đề Đốc Thoại tường trình bốn mươi lăm  phút về sự hiện diện của Trung Cộng ở Hoàng Sa, Tổng Thống  Thiệu sau khi thảo luận lấy giấy  bút ra viết bút lệnh để Phó Đề Đốc Thoại thi hành. Tổng Thống Thiệu nói câu sau cùng trong buổi họp: “Chúng ta không để mất một tấc đất nào cả”.
Theo Phó Đề Đốc Thoại, thì quyết định của Tổng Thống Thiệu không phải quyết định trong vòng năm mười phút, và Tổng Thống không phải cho lệnh nổ súng để tấn công hạm đội của Trung Cộng.   Chiến hạm của HQVNCH phải mời Trung Cộng cũng như các ngư thuyền, các chiến hạm lạ ra khỏi vùng lãnh hải của mình một cách ôn hòa, làm thế nào để thể hiện chủ quyền quốc gia trên các hải đảo. Nếu họ không tuân lệnh thì bắt buộc mình phải  nổ súng.

Cũng theo Hồ Văn Kỳ Thoại:
... Ðúng 08 giờ sáng hôm sau, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và phái đoàn, gồm có Trung Tướng Lê Nguyên Khang, Tổng Tham Mưu Phó; Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lịnh Quân Ðoàn I; Chuẩn tướng Trần Ðình Thọ, Trưởng Phòng 3 Bộ Tổng Tham Mưu, đến bộ tư lịnh Vùng 1 Duyên Hải bằng xe. Tôi đưa tất cả vào phòng thuyết trình. Tôi trình bày cặn kẽ địa hình địa thế của các đảo Hoàng Sa, lịch sử của các hải đảo này và sau cùng những diễn tiến trong mấy ngày qua và lực lượng quân sự TC và Việt Nam trên biển cũng như trên các đảo. Tôi nhấn mạnh việc chiến hạm Việt Nam cố gắng mời chiến hạm TC rời khỏi lãnh hải một cách ôn hoà nhưng tình hình trong 24 giờ qua cho thấy TC có ý định khiêu khích.

Sau khi nghe tôi trình bày xong, Tổng Thống Thiệu lấy bút giấy ra viết liên tục trong khoảng 15 phút. Sau khi viết xong, ông gọi tôi đến trước mặt ông và yêu cầu tôi đọc mấy trang giấy đó. Tổng Thống Thiệu nói : “Anh Thoại đến đây và đọc trước mặt tôi đây, có gì không rõ ràng cho tôi biết ngay từ bây giờ” (1). Trên đầu trang giấy có mấy chữ “Chỉ thị cho Tư Lịnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải”. Những chữ này làm tôi hơi khó chịu vì ông Thiệu không ghi Tư Lịnh Quân Khu I hay Tư Lịnh Hải Quân mà lại đề thẳng chức vụ của tôi. Lúc đó tôi không nghĩ ra rằng với chức vụ Tổng Tư Lệnh Quân Ðội, ông có toàn quyền chỉ thị trực tiếp mỗi đơn vị trưởng trong quân đội. Trong trang chót có đoạn “Chỉ thị cho Thủ Tướng Chánh Phủ”. Bản chánh của thủ bút Tổng Thống Thiệu tôi giữ mãi cho đến đầu tháng Năm, 1975, khi tôi bi mất cắp chiếc cặp lúc đến Fort Chaffee ở Arkansas, Hoa Kỳ (2). Tôi chắc chắn bản gởi cho Thủ tướng Trần Thiện Khiêm vẫn còn được lưu lại đâu đó sau khi Sài Gòn thất thủ.

Sau khi trao thủ bút cho tôi, Tổng Thống Thiệu hỏi các vị tướng lãnh bộ binh hiện diện có ý kiến gì không. Không ai trả lời. Ông nói tiếp : “Chúng ta không để mất một tấc đất nào cả (3)".


TT Thiệu rời Bộ Tư Lịnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải, sau khi ra chỉ thị về biện pháp đối phó với TC
khi hạm đội TC xâm nhập hải phận Việt Nam Công Hoà tại Hoàng Sa (1974).

Tôi cảm thấy là không còn giải pháp nào khác, hoặc tấn công trước hoặc røai khỏi lãnh hải của mình để tránh đụng chạm. Lúc ấy tôi lại nghĩ ngay thủ bút của Tổng Thống. Nếu rời lãnh hải quốc gia (4) bỏ đi là lịnh Tổng Thống sẽ không được thi hành. Rồi tôi sẽ trả lời ra sao với thượng cấp ?

Tôi và Ðại Tá Ngạc bàn đi bàn lại nhưng không biết phải làm thế nào và rồi tôi chỉ nói với Ðại Tá Ngạc là khi tình hình quá căng thẳng thì mình phải khai hoả trước để giảm thiểu thiệt hại. Ðại Tá Ngạc đồng ý với tôi là chiến hạm Việt Nam phải khai hoả trước. Tôi nhắc thêm Ðại Tá Ngạc :

“Anh nhớ hãy chỉ thị cho tất cả chiến hạm khai hoả cùng một lúc khi anh bắt đầu khai hoả !” (5) với mục đích phân tán sự phản pháo của địch. Ðại Tá Ngạc trả lời : “Nhận rõ 5 trên 5”. Tâm trạng bồi hồi, một cảm giác mà tôi không bao giờ quên, nhưng vì không rõ vị trí của từng chiến hạm, qua máy âm thoại, tôi nói tiếp : “Tuỳ nghi khai hoả khi nào anh sẵn sàng !”. Vài phút sau tiếng nổ chát chúa của các hải pháo vang dội trong máy truyền tin, dường như Ðại Tá Ngạc hoặc nhân viên vô tuyến cố tình bấm nút “On” để tôi có thể nghe, làm tôi vừa hãnh diện cho Hải Quân Việt Nam vừa lo sợ cho Hải Ðội của Ðại Tá Ngạc. Giọng Ðại Tá Ngạc rất là bình tĩnh và nhà binh : “Báo cáo đã bắt đầu khai hoả !” Tôi trả lời ngay : “Tôi nghe tiếng súng rồi, anh Ngạc”, và sau đó là một sự yên lặng trong khoảng năm mười phút nhưng đối với tôi nó kéo dài như hàng giờ. ... Trận hải chiến thật sự chỉ kéo dài hơn 30 phút. Khi phi cơ của Ðô Đốc Chơn và sĩ quan tuỳ viên của ông, Thiếu Tá Văn Trung Quân, chạm đất tại phi trường Ðà Nẵng thì trận hải chiến đã coi như kết thúc. Phó Đề Đốc Thoại xác nhận sự việc bắt đầu không phải là một cuộc hành quân mà chỉ là  sự phát giác tàu lạ trong lãnh hải VNCH và sự có mặt cuả người lạ tên hải đảo Hoàng Sa.  Sau buổi họp với Tổng Thống  Thiệu ở BTL Vùng I Duyên Hải, Phó Đề Đốc Thoại mới ban hành Lệnh Hành Quân chỉ định HQ Hà Văn Ngạc làm chỉ huy trưởng ChiếnThuật gồm bốn chiến hạm HQ4, HQ5, HQ16 và HQ10  để đối phó với tình hình tại Hoàng Sa.  Sau đó, Đại Tá Ngạc báo cáo nhiều sự việc xảy ra trên đảo,  sự khiêu khích của Trung Cộng đến mức độ  có thể phải có  nổ súng.

Ngày 19 Tháng 1, lệnh từ 4giờ sáng, các chiến hạm vào nhiệm  sở tác chiến. Lúc 9 giờ sáng Phó Đề Đốc Thoại đang túc trực trong trung tâm chiến báo BTL/VIZH, Đại Tá Ngạc báo cáo Trung Cộng bắn tử thương hai người nhái đổ bộ. Đại tá Ngạc đề nghị với Phó Đề Đốc Thoại là việc đổ quân trên các đảo phải tạm ngưng vì thiếu an toàn, nếu không giải quyết các chiến hạm TC trước. Phó Đề Đốc Thoại bàn với Đại tá Ngạc, nếu để bên kia nổ súng trước thì bên mình sẽ bị thiệt hại nhiều. Sau cùng Phó Đề Đốc Thoại   chỉ thị Đại tá Ngạc:” Nếu anh thấy không còn cách nào khác để đuổi họ ra thì anh chuẩn bị đội hình và tùy nghi khai hỏa nhưng anh phải chỉ thị các chiến hạm cùng nổ súng một lượt sau khi chỉ định muc tiêu,  để phân tán hỏa lực của họ”.

Lúc 10 gờ 9 phút sáng, các chiến hạm  nhận lệnh chuẩn bị tác xạ. Các chiến hạm VNCH và Trung Cộng chỉ cách nhau 700 met. Đúng 10 giờ 24 phút, Đại tá Ngạc ra lệnh đồng loạt khai hỏa và bấm vào ống liên  hợp của máy âm thoại kéo dài khoảng 1 phút để tất cả hệ thống liên lạc đều nghe rõ tiếng súng lịch sử trận Hải chiến Hoàng Sa ngày 19 Tháng 1, 1974.

Mặc dù được toàn quyền và biết rằng hải đảo Hoàng Sa thuộc trách nhiệm của Tư Lịnh Quân Khu 1(chớ không phải của Tư Lịnh Hải Quân) nhưng trước khi ra lịnh khai hoả tác giả vẫn trình Trung Tướng Trưởng để báo cáo tình hình và gọi điện thoại về Bộ Tư Lịnh Hải Quân để tìm Ðô Ðốc Chơn để báo cáo rẵng việc nổ súng không sao tránh khỏi. Bộ Tư Lịnh Hải Quân cho biết Ðô Ðốc Chơn hiện đang dự một buổi lể cùng Tổng Thống ở Ðà Lạt và Bộ Tư Lịnh không biết ông sẽ về lại Sàigòn hay ra thẳng Ðànẳng. Khi đô đốc Chơn đến Căn Cứ Hải Quân Ðànẳng tôi trình Ðô Ðốc Chơn là tôi và Ðại Tá Ngạc quyết định tấn công trước để tránh thiệt hại Ðô Ðốc Chơn lặng thinh khi nghe tôi báo cáo một sự việc đã rồi và chưa bao giờ Ðô Ðốc trách cứ thẳng với tôi là chỉ thị khai hoả trước là một quyết đinh sai. Tôi chỉ xác nhận là tôi trực tiếp nói chuyện vô tuyến với Ðại Tá Ngạc đến giây phút cuối trước khi súng nổ. Cũng nên ghi rõ là khi Ðại Tá Ngạc giữ chức Hải Ðội Ðặc Nhiệm tại Hoàng Sa, ông thuộc quyền chỉ huy hành quân trực tiếp của Vị Chỉ Huy Liên Ðoàn Ðặc Nhiệm 231/1 tức Tư Lịnh Hải Quân Vùng 1 Duyến Hải.
Theo Đại Tá Hà Văn Ngạc, Hải đội trưởng tường Thuật:
17/1, Tư Lệnh HQ Vùng I Duyên Hải cũng cho tôi hay và giơ một tờ giấy nhỏ nói là ông có thủ bút của Tổng Thống vừa tới thăm bản doanh trước đây , nhưng tôi không hỏi về chi tiết cũng như xin xem thủ bút vì tôi nghĩ đó là chỉ thị riêng tư giữa Tổng Thống và một vị Tướng Lãnh . Vị Tư Lệnh này còn cho tôi hai chọn lựa : một là chỉ huy các chiến hạm ngay tại Bộ Tư Lệnh Vùng , hai là đích thân trên chiến hạm . Tôi đáp trình ngay là : Tôi sẽ đi theo các đơn vị của tôi...

Ðến khoảng buổi chiều thì Tư Lệnh Vùng I Duyên Hải còn hỏi tôi có cần thêm gì , tôi trình xin thêm một chiến hạm nữa vì cần hai chiếc khi di chuyển trong trường hợp bị tấn công trên hải trình , chứ không phải vì số lượng chiến hạm Trung Cộng đang có mặt tại Hoàng Sa . Chiếc Hộ tống hạm ( PCE ) HQ10 Nhựt Tảo đựơc chỉ định xung vào Hải đoản đặc nhiệm , với lý do chính là chiếc Hộ tống hạm này đang tuần dương ngay khu vực cửa khẩu Ðà Nẵng nên giảm bớt thời gian di chuyển , chiến hạm chỉ có một máy chánh khiển dụng mà thôi . Ngoài ra vị Tư Lệnh HQ vùng còn tăng phái cho tôi HQ Thiếu Tá Toàn ( Ghi chú của Trần Ðỗ Cẩm : HQ Thiếu Tá Nguyễn Chí Toàn , Khoá 11 SQHQ / Nha Trang ) , mà tôi chưa biết khả năng nên trong suốt thời gian tăng phái tôi chỉ trao nhiệm vụ giữ liên lạc với các Bộ Tư Lệnh cho vị sĩ quan này . Tôi dùng cơm chiều gia đình cùng Tư Lệnh HQ Vùng tại tư thất trong khi chờ đợi Tuần Dương Hạm HQ5 tới . Sau bữa ăn , Tư Lệnh HQ Vùng đích thân đi bộ tiễn chân tôi ra cầu quân cảng . Sau trận chiến , vị Ðô Đốc này có thổ lộ cùng tôi là ông đã tưởng đó là bữa cơm cuối cùng của ông với tôi . Như vậy là trận hải chiến đã dự liệu là sẽ có thể xẩy ra , và chắc vị Ðô Đốc đã mật trình về Tư Lệnh Hải Quân thường có mặt tại Bộ Tư Lệnh .
Tuần Dương Hạm HQ5 rời bến khoảng 09 : 00 tối và tôi trao nhiệm vụ đi tới Hoàng Sa cho Hạm Trưởng HQ5 là vị Hạm Trưởng thâm niên hơn ( Ghi chú của Trần Ðỗ Cẩm : HQ5 và HQ10 cùng đi Hoàng Sa , Hạm Trưởng HQ5 là Trung Tá Quỳnh thuộc khoá 11 SQHQ Nha Trang , thâm niên hơn Hạm Trưởng HQ10 là Thiếu Tá Thà thuộc khoá 12 SQHQ Nha Trang ) . Sự hiện diện của tôi trên chiến hạm này đã làm tân Hạm Trưởng , vừa nhậm chức 2 ngày trước , được vững tâm hơn vì chắc tân Hạm Trưởng chưa nắm vững được tình trạng chiến hạm cũng như nhân viên thuộc hạ . Các chiến hạm đều giữ im lặng vô tuyến ngoại trừ các báo cáo định kỳ về vị trí ...

Vào khoảng 11:00 giờ tối ngày 18, một lệnh hành-quân, tôi không còn nhớ được xuất-xứ, có thể là của Vùng I duyên-hải, được chuyển mã-hóa trên băng-tần SSB (single side band) (Ghi chú của Trần Ðỗ Cẩm: đây là công điện Mật/Khẩn chiến dịch mang số 50.356, nhóm ngày giờ 180020H/01/74 do BTL/HQ/V1ZH gửi với tiêu đề: Lệnh Hành Quân Hoàng Sa 1) . Lệnh hành-quân vừa được nhận vừa mã-dịch ngay nên không bị chậm-trễ, và lệnh này ghi rõ quan-niệm hành-quân như sau: tái-chiếm một cách hòa-bình đảo Quang-Hòa. Lệnh hành-quân cũng không ghi tình-hình địch và lực-lượng trừ-bị...

Việc thất-bại đổ-bộ được báo-cáo ngay về Bộ-Tư-lệnh HQ vùng I duyên-hải và chừng ít phút sau đó (vào khoảng 09:30 sáng) thì đích thân Tư-lệnh HQ VNCH hay Tư-lệnh Vùng I duyên-hải ra lệnh vắn-tắt có hai chữ: "khai-hỏa" bằng bạch-văn cho Hải-đoàn đặc-nhiệm và không có chi-tiết gì khác hơn. Tôi nhận biết được khẩu-lệnh trên băng siêu-tần-số SSB (single side band) không phải là của nhân-viên vô-tuyến mà phải là của cấp Ðô-đốc, nhưng từ đó đến nay tôi vẫn tin rằng là của Tư-lệnh Hải-quân mà tôi đã quen-thuộc giọng nói, nên tôi đã không kiểm-chứng thêm về sau. Tôi trở nên yên-tâm hơn vì khẩu-lệnh khai hỏa đã giải-tỏa trách-nhiệm của tôi ghi trong phần quan-niệm của lệnh hành-quân là tái-chiếm một cách hòa-bình.
Tôi đích-thân vào máy siêu-tần-số trình ngay là chưa có thể khai-hỏa được vì phải chờ triệt-thối Biệt-đội hải-kích về chiến-hạm, họ còn trên mặt biển và ở vào vị-thế rất nguy-hiểm. Riêng tử-thi của liệt-sĩ hải-kích Ðỗ-văn-Long tôi lệnh không cho vào lấy vì có thể gây thêm thương-vong. Tôi tin rằng tử-thi của Liệt-sĩ Long sẽ không khó-khăn để thâu-hồi khi toán quân-bộ Trung-cộng được tiêu-diệt sau đợt các chiến-hạm của họ bị loại hoàn-toàn khỏi vòng chiến.
Vào khoảng gần 10:00 giờ sáng, biệt-đội hải-kích được hoàn-tất thu-hồi về Tuần-dương-hạm HQ5 với HQ Trung-Úy Lê-văn-Ðơn tử-thương. Trong khi đó thì tôi chỉ-thị cho các chiến-hạm chuẩn-bị tấn-công, mỗi chiến-hạm tấn-công một chiến-hạm địch, và bám sát địch trong tầm hải-pháo 40 ly (khoảng 3 cây-số), vì loại hải-pháo này có nhịp tác-xạ cao, dễ điều-chỉnh và xoay hướng nhanh hơn. Tôi không tin-tưởng nhiều vào hải-pháo 127 ly và khả-năng điều-khiển chính-xác của nhân-viên vì hải-pháo chỉ có thể tác-xạ từng phát một, nạp đạn nặng-nề và chậm xoay hướng nên tốt hơn là trực-xạ.
Tất cả các chiến-hạm phải cùng khai-hỏa một lúc theo lệnh khai-hỏa của tôi để tạo sự bất ngờ và sẽ gây thiệt-hại trước cho các chiến-hạm Trung-cộng. Vì tầm quan-sát còn rất hạn-chế, nên từ Tuần-dương-hạm HQ5 không quan-sát được Tuần-dương-hạm HQ16 và Hộ-tống-hạm HQ10 cũng như hai chiến-hạm khác và hai ngư-thuyền ngụy-trang của Trung-cộng nên tôi không rõ các chiến-hạm này bám-sát các chiến-hạm Trung-cộng được bao nhiêu, nhưng tôi đã tin rằng Phân-đoàn II không có bận tâm về việc đổ-bộ nên có nhiều thì-giờ hơn để thi-hành kế-hoạch tấn-công và sẽ dễ-dàng chế-ngự được hai chiến-hạm phụ của địch cùng hai ngư-thuyền. Riêng Tuần-dương-hạm HQ5 và Khu-trục-hạm HQ4 đã nghiêm-chỉnh thi-hành lệnh. Trước khi ban-hành lệnh khai-hỏa tôi lần nữa hỏi các chiến-hạm đã sẵn-sàng chưa và nhấn-mạnh một lần nữa là phải khai-hỏa đồng-loạt để đạt yếu-tố bất-ngờ. Các hạm-trưởng đích-thân trên máy VRC46 lần-lượt báo-cáo sẵn-sàng. Tôi rất phấn-khởi vì giờ tấn-công hoàn-toàn do tôi tự-do quyết-định, không phải lệ-thuộc vào lệnh của thượng-cấp và vào ý-đồ chiến-thuật của địch. Ðịch lúc này đã tỏ ra không có một ý-định gì cản-trở hay tấn-công chiến-hạm ta.
Hải-quân Ðại-Tá Ðỗ-Kiểm, Tham-mưu-phó hành-quân tại Bộ-Tư-lệnh Hải-quân còn đặc-biệt cho tôi hay là có chiến-hạm bạn ở gần, nhưng với sự hiểu-biết của tôi, tôi không có một chút tin-tưởng gì vào đồng-mình này vì kể từ tháng 2 năm 1972 khi Hoa-Kỳ và Trung-cộng đã chấm-dứt sự thù-nghịch nên Hải-quân của họ sẽ không một lý do gì lại tham-dự vào việc hỗ-trợ Hải-quân Việt-Nam trong vụ tranh-chấp về lãnh-thổ. Họa chăng họ có thể cứu-vớt những người sống-sót nếu các chiến-hạm HQVN lâm-nạn. Nhưng thực-tế cho thấy trong suốt cuộc tìm-kiếm những nhân-viên từ Hộ-tống-hạm HQ10 và các toán đã đổ-bộ lên trấn giữ các đảo đã đào-thoát để trở về đất liền, chúng ta không nhận thấy một hành-động nhân-đạo nào từ phía đồng-minh kể cả của phi-cơ không-tuần.
Khoảng 10:24 sáng thì lệnh khai-hỏa tấn-công được ban-hành và tôi vào trung-tâm chiến-báo trực-tiếp báo cáo bằng máy siêu-tần-số SSB, tôi đã cố ý giữ ống nói sau khi tôi chấm-dứt báo-cáo để tiếng nổ của hải-pháo cũng được truyền đi trên hệ-thống này.




Vai trò của Đô Đốc Trần Văn Chơn
Trích bình luận của nhà nghiên cứu Trần Bình Nam về cuốn Sự Thật Hải chiến Hòang Sa của Thềm Sơn Hà

"Vai trò của Đô Đốc Trần Văn Chơn, Tư lệnh Hải Quân chẳng hạn. TT Thiệu có thảo luận trực tiếp với ông không? Bộ Quốc Phòng có chỉ thị gì không? Và trong ngày 19/1 khi súng nổ ngoài Hoàng Sa ông đang làm gì? Vai trò của ông Tư Lệnh Hải quân trong trận hải chiến hết sức lờ mờ. Hình như ông muốn tránh ra ngoài cuộc chiến. Với quan hệ gần như huynh đệ với Đô Đốc Zumwalt thời gian ông Zumwalt làm cố vấn cho HQVN trong giai đoạn Việt Nam hóa chiến tranh, có thể Đô Đốc Chơn biết Hoa Kỳ có chương trình bỏ Hoàng Sa cho Trung Quốc, và không muốn làm gì để trái với kế hoạch của Hoa Kỳ mà trên thực tế ông biết cưỡng lại cũng không được.
Ông Thềm Sơn Hà trong cuốn Sự Thật Hải chiến Hòang Sa không đặt bất cứ một câu hỏi nào về cách hành xử và thời biểu làm việc khó hiểu của ĐĐ Chơn trong ngày 19/1. Ông chỉ nêu ra một sự việc do Đại úy Lê Văn Thự (trùng tên với Trung Tá Lê Văn Thự, hạm trưởng HQ 16, một trong những chiến hạm tham chiến trận Hoàng Sa) Trung Tâm trưởng Trung tâm Hành Quân Vùng 1 Duyên Hải thuật lại là ĐĐ Chơn đã khóc khi được báo cáo HQ 10 chìm, hạm trưởng Ngụy Văn Thà tử thương."

Thực hư hải chiến Hoàng Sa 1974

"Ngày hôm sau, 16/1, HQ-16 đưa 16 lính Biệt Hải của VNCH đến bảo vệ đảo Hữu Nhật. Nhưng quân Trung Quốc đã có mặt trên đảo Duy Mộng (Drummond) và đảo Quang Hòa (Duncan) với lực lượng hỗ trợ ở gần đó. Tất cả những thông tin này đều được khẩn báo về Đà Nẵng.
Ở sở chỉ huy đã có sự hoang mang. Tham mưu phó Hải quân Đỗ Kiểm, người có cấp bậc cao thứ ba trong hàng ngũ hải quân VNCH, đã đề nghị phải phản ứng nhanh và kiên quyết. “Nếu chúng ta hàng động bây giờ thì có thể lấy lại được đảo,” ông Kiểm nhớ lại lời ông nói với tư lệnh hải quân, Đề đốc Trần Văn Chơn. Thay vì thế, theo lời ông Kiểm, ông Chơn đã yêu cầu phải có bằng chứng lịch sử về chủ quyền của Việt Nam với quần đảo đó. Mấy giờ sau ông Kiểm đã phải tìm trong thư viện hải quân và phòng lưu trữ chỉ để tìm các tài liệu...
Ông Ngạc liên lạc về để tìm mệnh lệnh. Trong trụ sở Hải Quân VNCH ở Sài Gòn, Đỗ Kiểm chạy đi tìm Đề đốc Chơn. Ông ta biến mất. Một trợ l‎ý bảo rằng ông Chơn đã ra sân bay để chuẩn bị đi Đà Nẵng. Ông Kiểm gọi cho phó của ông Chơn ở Đà Nẵng. Ông ta cũng biến mất, để ra sân bay đón ông Chơn. Ngay tại thời điểm mà số phận của Hoàng Sa đang ngàn cân treo sợi tóc, hai lãnh đạo tối cao của Hải Quân VNCH đều mất tích."


Ông Trần Trọng Ngà - Chủ tịch Ủy Ban Nghiên Cứu Trận HCHS đáp trả:
"Vào buổi sáng ngày diễn ra cuộc chiến, Tư Lệnh HQ, Đề đốc Trần Văn Chơn đang trên máy bay từ Sài Gòn đến Đà Nẵng với dự tính sẽ trực tiếp theo dõi trận chiến. Rất tiếc khi ông đến nơi thì cuộc chiến đã chấm dứt. Vì vậy không có cái gọi là “Ở sở chỉ huy đã có sự hoang mang “ và sự kiện “ông Chơn đã yêu cầu phải có bằng chứng lịch sử về chủ quyền của Việt Nam với quần đảo đó...
Tương tự, cũng trong buổi sáng ngày diễn ra cuộc chiến, Phó Đề đốc Lâm Ngươn Tánh, Tư Lệnh phó HQ, cũng đang trên đường bay từ Sài Gòn ra Đà Nẵng theo chỉ thị của Đề đốc Chơn để theo dõi các diễn biến tại chỗ.
Vì vậy các từ ngữ “biến mất”, “mất tích” trong bài viết của ông Hayton để chỉ việc không liên lạc được với các cấp chỉ huy của HQ đã tạo ra sự ngộ nhận."

Vai trò của Gerald Kosh



Tổ 6 người do Diệp Kiếm Anh đứng đầu với Vương  Hồng Văn, Trương Xuân Kiều, Đặng Tiểu Bình, Trần Tích Liên, Tô Chấn Hoa.

Tổ chỉ huy và Đặng Tiểu Bình họp bàn việc đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974.
             Tại Quảng Châu, Tư lệnh Quân khu Hứa Thế Hữu chỉ huy các lực-lượng tham chiến gồm Hải Lục Không quân, có phụ tá là Nam Hải Hạm Đội Tư Lệnh Viên Trương Nguyên Bồi.
Sau dây là những nhân-vật ngoài tiền-tuyến:
      Ngụy Minh Sâm (nguyên là Du Lâm Cơ Địa Phó Tư Lệnh Viên) là Tây Sa Hải chiến Tiền tuyến Tổng Chỉ huy.
            TC không nói lý-do tại sao Ông này không được đề bạt, vẫn y nhiên "Phó Quân Chức". Nguỵ vẫn trong quân-ngũ đến tuổi hưu, sống thầm-lặng ít phát biểu cho đến khi chết vào năm 2007, "hưởng-niên" 88 tuổi.
            Một số Quan Chỉ-huy Trung-Cộng cấp Chiến Hạm tham chiến trận Hải-Chiến Hoàng-Sa năm 1974 nay cũng đã lớn tuổi, có người qua đời. Hầu hết bọn họ đã được thăng-cấp Tướng Hải-Quân và thấp nhất là Hải-Quân Đại-Tá. Chúng tôi ghi phiên-âm đầy đủ theo cách nói của Trung-Cộng[3] như sau đây:
1- Tây Sa Hải chiến Tiền tuyến Tổng Chỉ huy Ngụy Minh Sâm Tướng-Quân, 1937 niên 10 nguyệt tham gia bát lộ quân, thì nhậm Hải quân Du Lâm Cơ Địa phó Tư Lệnh Viên (phó quân chức), Tây Sa Hải chiến hậu một hữu đắc đáo đề bạt, đáo ly hưu thì y nhiên thị phó quân chức. 2007 niên 12 nguyệt, nguỵ lão bệnh cổ, hưởng niên 88 tuế.
2- Tây Sa Hải chiến 271 biên đội Chỉ Huy Viên Vương Khắc Cường, nhị đẳng công, thì nhậm Liệp tiềm đĩnh 73 đại đội Đại Đội Trưởng, Tây Sa Hải chiến hậu tiên hậu nhậm Hải quân Du Lâm Cơ Địa phó Tư Lệnh Viên, Hải quân Học viện huấn luyện bộ Bộ Trưởng (Hải Quân Thiếu Tướng),  hiện dĩ thối hưu, tại Nam kinh an độ vãn niên.
3- Tây Sa Hải chiến 271 biên đội Chỉ Huy Viên Vương  Sùng Vân, thì nhậm Liệp tiềm đĩnh 73 đại đội Chánh Ủy, vinh lập cá nhân tam đẳng công, Tây Sa Hải chiến hậu nhậm Quảng Châu Cơ Địa chánh trì bộ phó chủ nhậm  (Hải Quân Đại Tá), hiện dĩ thối hưu.
4- Tây Sa Hải chiến 389 biên đội Chỉ Huy Viên Tả Sùng Nghĩa, nhị đẳng công vinh lập giả, thì nhậm Hải quân Tảo lôi hạm thập đại đội Đại Đội Trưởng, Tây Sa Hải chiến hậu nhậm Quảng Châu Cơ Địa phó Tư Lệnh Viên (Hải Quân Thiếu Tướng),  hiện dĩ bệnh cố.
5- Tây Sa Hải chiến 389 biên đội Chỉ Huy Viên Dương Phúc Vinh, tam đẳng công vinh lập giả, thì nhậm Tảo lôi hạm thập đại đội chánh trì ủy viên, Tây Sa Hải chiến hậu nhậm Du Lâm Cơ Địa chánh trì bộ chủ nhậm (Hải Quân Thiếu Tướng),  hiện dĩ thối hưu.
6- Tây Sa Hải chiến 271 biên đội dự bị Chỉ Huy Viên La Mai Thịnh, tam đẳng công vinh lập giả, thì nhậm 73 đại đội phó Đại Đội Trưởng, Tây Sa Hải chiến hậu nhậm nghiễm châu hạm đĩnh học viện giáo nghiên thất chủ nhậm  (Hải quân Đại Tá),  hiện dĩ thối hưu.
7- Tây Sa Hải chiến 281 biên đội Chỉ Huy Viên Lưu Hỉ Trung, Liêu trữ nhân, 1947 niên tham gia giải phóng quân, tam đẳng công vinh lập giả, thì nhậm liệp tiềm đĩnh 74 đại đội Đại Đội Trưởng, Tây Sa Hải chiến hậu nhậm Tây Sa tuần phòng khu chủ nhậm, Tây Sa thủy cảnh khu Tư Lệnh, Du Lâm Cơ Địa phó Tư Lệnh Viên, Nam Hải hạm đội phó Tư Lệnh Viên (Hải Quân Thiếu Tướng),  hiện dĩ li hưu.
8-  Tây Sa Hải chiến 281 biên đội Chỉ Huy Viên Trương Chiêu Ngọc, San đông nhân, 1956 niên nhập ngũ, thì nhậm liệp tiềm đĩnh 74 đại đội phó chánh trì ủy viên, Tây Sa Hải chiến hậu nhậm Khu trục hạm Chánh Ủy, Hải quân Quảng Châu Cơ Địa chánh trì bộ phó chủ nhậm  (Hải Quân Đại Tá), hiện dĩ thối hưu.
9- Tây Sa Hải chiến 274 đĩnh Đĩnh Trưởng Lí Phúc Tường, San đông nhân, 1957 niên nhập ngũ, nhất đẳng công thần, anh hùng Đĩnh Trưởng, Tây Sa Hải chiến hậu nhậm liệp tiềm đĩnh 73 đại đội phó Đại Đội Trưởng, nhân tại Hải chiến trung não bộ thụ thương, 1978 niên bệnh thối hồi san đông yên thai lão gia, lão bạn khứ thế hậu dữ nhân tử trụ tại nhất khởi, sanh hoạt tình huống bỉ giác khốn nan.
10-. Tây Sa Hải chiến 389 hạm Hạm Trưởng Tiếu Đức Vạn, Hồ nam nhân, 1961 niên nhập ngũ, nhất đẳng công thần, anh hùng Hạm Trưởng,  Tây Sa Hải chiến hậu nhậm Hải ti tác chiến bộ phó Bộ Trưởng, Bộ Trưởng, Hải quân Phúc kiến cơ địa Tư lệnh bộ phó Tham mưu Trưởng, hạ môn thủy cảnh khu Tư Lệnh Viên, Thượng Hải cơ địa phó Tư Lệnh Viên, Chu San cơ địa Tư Lệnh Viên (Hải Quân Thiếu Tướng, chánh quân chức), hiện dĩ thối hưu.
11- Chính-Ủy Phùng-Tùng-Bách Và Đĩnh Phó K-274 Chu Tích Thông chết vì đạn HQ-4 (ghi thêm: Đĩnh Trưởng K-274 Lí Phúc Tường cũng thụ thương não bộ).
12- Một Sĩ Quan tham chiến tại Hoàng Sa, sau này vang danh trong HQ/TC là Trần Vĩ Văn, Hải Quân Thiếu Tướng, chỉ-huy biên-đội tác-chiến Trưởng Sa 1988, tàn-sát nhiều HQND Việt Nam.
12 viên chỉ huy quân Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974
GDVN 20/08/12 05:00
Trong khi ngày 5/8 Tân Hoa Xã đưa tin, Mao Trạch Đông chính là người ra lệnh dùng vũ lực đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974 thì chỉ sau đó ít ngày, 9/8 tờ Nhân dân nhật báo Trung Quốc tiếp tục đăng bài thuật lại cuộc chiến này, trong đó điểm mặt 6 viên chỉ huy chóp bu ở Bắc Kinh trực tiếp hoạch định và chỉ đạo tác chiến lực lượng đánh chiếm Hoàng Sa. Hiện tại, một số lính Trung Quốc tham gia đánh chiếm Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974 như tên Vương Xương Thái thường xuyên được giới truyền thông nhà nước Trung Quốc và một số đơn vị quân đội mời đi nói chuyện, tuyên truyền xuyên tạc về vấn đề Biển Đông và trận hải chiến Hoàng Sa 1974. Chính Vương Xương Thái tiếp tục “điểm mặt, chỉ tên” 12 viên chỉ huy quân Trung Quốc trực tiếp tham gia đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974. Trong số đó, viên tổng chỉ huy đã chết năm 2007, số còn lại đều thăng quan tiến chức. Để rộng đường dư luận và góp phần vạch mặt âm mưu thâm độc của truyền thông Trung Quốc và cung cấp thêm tư liệu về những kẻ đã đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974, xin đăng tải chân dung 12 tên chỉ huy quân Trung Quốc đã trực tiếp tham chiến.






Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét